KHUYNH HƯỚNG TỔNG THỂ CỦA HỒI GIÁO HIỆN ĐẠI - Phần I
TS. Bùi Nhật Quang - Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông
1. KHÁI QUÁT VỀ HỒI GIÁO
1.1. Sự hình thành của Hồi giáo
Hồi giáo là một tôn giáo độc thần phát triển dựa trên nền tảng quan trọng nhất là Kinh Koran, một văn bản mà những người theo đức tin này cho rằng đã ghi nhận đúng từng lời răn dạy của Chúa Allah thông qua lời truyền đạt của Mohammed, người mà các tín đồ tin tưởng là Thiên sứ cuối cùng của Allah. Danh từ Hồi giáo (Islam) còn có nghĩa là “sự tuân phục đối với Chúa trời”, “hòa bình” và “con đường đi tới hòa bình”. Người tin tưởng vào Hồi giáo được gọi là Tín đồ Hồi giáo
Hồi giáo ra đời vào đầu thế kỷ thứ VII tại khu vực Bán đảo Arab do nhà tiên tri Mohammed sáng lập. Mặc dù là tôn giáo ra đời muộn nhất ở Trung Đông với niên đại vào khoảng đầu thế kỷ VII sau Công nguyên (trong khi đó Do thái giáo được coi là tôn giáo ra đời sớm nhất tại khu vực Trung Đông với bề dầy lịch sử phát triển tính từ năm 2000 trước công nguyên, Thiên Chúa giáo có mặt ở Trung Đông từ thế kỷ thứ I sau Công nguyên) nhưng Hồi giáo đã nhanh chóng phát triển, mở rộng phạm vi ảnh hưởng và hiện nay trở thành tôn giáo có vị trí quan trọng nhất khu vực Trung Đông và đang mở rộng phạm vi ảnh hưởng trên toàn cầu. Lịch sử hình thành và phát triển của Hồi giáo gắn liền với bộ kinh Koran (Qur’an). Tương truyền rằng kinh Koran là sự nối kết những dòng tư tưởng về một tôn giáo độc thần khởi đầu từ tổ phụ Abraham, sau đó đến Maisen, qua Jesus và cuối cùng là Mohammed. Từ 2000 năm trước Công nguyên, người Arab đã biết đến Thiên Chúa của Abraham mà họ gọi là Allah. Điều đó có nghĩa là người Arab đã thờ Allah từ 27 Thế kỷ trước khi có Mohammed và đạo Hồi. Qua nhiều thế kỷ tiếp xúc với văn hoá Do Thái, người Arab rất quen thuộc với các nhân vật của Kinh thánh Cựu ước (Torah). Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII, người Arab tiếp xúc với những người Thiên Chúa giáo thuộc Đế quốc Byzantine rộng lớn và từ các nước láng giềng như Syria, Ai Cập... Mặc dù có rất ít người Arab theo Thiên Chúa giáo lúc bấy giờ, nhưng họ cũng bị ảnh hưởng phần nào từ Thiên Chúa giáo. Trước khi kinh Koran ra đời, sự thiếu hụt của một nền tảng văn hóa và đức tin chung làm chỗ dựa cho quá trình phát triển xã hội khiến cho các cộng đồng người Arab tại Trung Đông đã gặp nhiều khó khăn trong tạo lập sức mạnh đoàn kết chống lại các thế lực áp bức bên ngoài cũng như chống lại sự lấn át về văn hóa của các nền văn minh khác.
Khi kinh Koran xuất hiện vào thế kỷ thứ VII, người Arab tự hào vì họ có một Thánh kinh viết riêng bằng tiếng Arab. Người Arab đã đón nhận kinh Koran và đạo Hồi với một tinh thần dân tộc và văn hoá Arab, khiến đạo Hồi sau đó được lan truyền nhanh chóng và kinh Koran trở thành chất keo gắn kết các bộ lạc Arab lại với nhau, biến khối Arab trở thành một khối đại đoàn kết. Sau khi kinh Koran và đạo Hồi ra đời, toàn vùng Trung Đông đã đạt tới đỉnh cao của sự phát triển từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XIII và giai đoạn này được đánh giá là Thời đại hoàng kim (The Golden Age) của những người Hồi giáo Trung Đông. Vào thời điểm này, người Arab rất quan tâm học hỏi từ nền văn hoá Hy Lạp và họ chú trọng đến nghiên cứu toán học, thiên văn, khoa học thực nghiệm. Đầu thế kỷ VIII, trường Đại học đầu tiên của thế giới Hồi giáo đã được xây dựng tại Baghdad (Iraq) và thành phố này đã nhanh chóng trở thành một trong những trung tâm văn hoá lớn nhất thế giới. Trong các thế kỷ sau đó, nhiều tác phẩm triết học, y khoa, toán học, văn học... của người Hy Lạp được dịch sang tiếng Arab. Người Arab cũng đã đạt được những tiến bộ lớn về khoa học, kỹ thuật và đóng góp cho nhân loại nhiều phát minh, sáng chế quý báu, đặc biệt trong lĩnh vực y khoa. Do ham chuộng khoa học, tín đồ Hồi giáo và khu vực Trung Đông nơi tôn giáo này hình thành, phát triển từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ XII được đánh giá là khu vực văn minh trên thế giới.
1.2. Những giáo lý cơ bản của Hồi giáo.
Những giáo lý cơ bản của Hồi giáo được gắn liền với tên tuổi của Giáo chủ Mohammed (570 – 632) là một người thuộc gia tộc Casimu ở Mecca. Tục truyền rằng thánh Allah (Ala – Chân chủ) đã cử thiên sứ Gabrien đến truyền đạt Thần dụ và lần đầu tiên “khải thị” cho Mohammed chân lý của kinh Koran khiến ông trở thành “Thánh thụ mệnh” để tiếp thụ sứ mệnh của chân chủ trao cho và bắt đầu công cuộc truyền bá đạo Hồi. Cùng với việc mở rộng phạm vi truyền đạo, Mohammed còn liên minh với các bộ tộc và dùng sức mạnh buộc các thế lực còn lại phải quy thuận theo Hồi giáo. Cuộc cách mạng do Mohammed lãnh đạo là một cuộc cách mạng tôn giáo và cải cách xã hội kết hợp với nhau. Các quan điểm và giáo lý của Hồi giáo như được thể hiện trong kinh Koran cho đến nay vẫn có ảnh hưởng rất mạnh tại các khu vực có cộng đồng Hồi giáo sinh sống và là nền tảng lý luận quan trọng giúp cho thế giới bên ngoài có cách nhìn và đánh giá đúng mực về tôn giáo này.
Kinh Koran là một quyển kinh gồm có 114 chương và 6236 câu thơ (verses). Sự phân bố các câu thơ trong các chương không đều nhau, chương dài nhất có 287 câu thơ, chương ngắn nhất chỉ có 3 câu thơ. Phần lớn kinh Koran được Mohammed viết tại thánh địa Mecca, số còn lại viết tại thánh địa Medina. Mohammed viết kinh Koran trên lá cọ khô và trên những tấm da súc vật phơi khô. Cuốn kinh sau này lưu giữ được là nhờ cố gắng sao chép và phục hồi của nhiều vị vua khác nhau trị vì trên khu vực bán đảo Arab, trong đó phải kể đến công của vị vua Uthman (644-657). Khác với Kinh thánh Cựu ước (Torah), Kinh Koran ngoài việc đề cập đến những vấn đề thiêng liêng và lịch sử, còn đề cập đến những giáo lý cơ bản dành riêng cho người Hồi giáo. Đây có thể được đánh giá là bộ luật đầu tiên và cao nhất của người Hồi giáo. Ví dụ: Cấm cho vay nặng lãi (Koran, chương 2, câu 275); Cấm cờ bạc (Koran, chương 5 câu 90); Cấm săn bắn trong thời gian hành hương về Mecca (Koran, chương 5 câu 93); Phải ăn chay trong tháng Ramadan (Koran, chương 2 câu182); Phụ nữ ngoại tình bị ném đá cho chết (Koran chương 4 câu 15); Bị đóng đinh hoặc chặt hết chân tay nếu chống Thiên Chúa Alla và thiên sứ Mohammed (Koran, chương 5 câu 3).
Kinh Koran đồng thời cũng liệt kê ra 10 điều răn bao gồm: (1) Chỉ tôn thờ thiên chúa Alla; (2) Vinh danh và kính trọng cha mẹ; (3) Tôn trọng quyền của người khác; (4) Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo; (5) Cấm giết người trừ những trường hợp đặc biệt; (6) Cấm ngọai tình; (7) Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi; (8) Hãy cư xử công bằng với mọi người; (9) Hãy trong sạch về tình cảm và tinh thần; (10) Hãy khiêm tốn.
Ngoài những giáo lý trên, Kinh Koran còn đề ra 5 nghĩa vụ căn bản buộc mọi người Hồi giáo phải thực hiện, đó là: niệm, lễ, trai, khoá, triều. Đây được coi là 5 trụ cột cơ bản của Hồi giáo, cụ thể là:
(1) Niệm: Tín đồ phải thường xuyên tụng niệm câu Sahadah “Không có Thiên Chúa nào khác ngoài Allah và sứ giả của người là Mohammed, La ila ha il allah”.
(2) Lễ: Mỗi tín đồ hàng ngày phải hành lễ 5 lần về phía thánh địa Mecca (Salah: Turning to Mecca to pray 5 times a day);
(3) Trai: tức trai giới. Trong tháng ăn chay Ramadan, mọi tín đồ không ăn uống, quan hệ tình dục từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn. (Sawn: Fasting during daylight hours through the month of Ramadan);
(4) Khoá: Mọi tín đồ phải tham gia hoạt động bố thí, từ thiện bằng cách trích 2,5% thu nhập của mình cho những người Hồi giáo khác (Zakat: Setting aside 2,5% of income to benifit the Muslim community);
(5) Triều: Các tín đồ phải hành hương về thánh địa Mecca ít nhất 1 lần trong đời (Hajj: A one –in-a lifetime pilgrimage to Mecca).
Nghiên cứu về Hồi giáo qua Kinh Koran cho thấy tôn giáo này có nhiều ưu điểm thể hiện rõ trong các lời răn dạy và trong 5 trụ cột của tôn giáo. Những ưu điểm này đã đưa xã hội Hồi giáo (chủ yếu ở khu vực Trung Đông) bước vào thời đại hoàng kim từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XII. Kể từ khi kinh Koran ra đời, Hồi giáo trở thành một sức mạnh chính trị và tinh thần vô cùng quan trọng đối với toàn thể tín đồ Hồi giáo và ngay tại quê hướng của Hồi giáo là Bán đảo Arab, tôn giáo này trở thành chỗ dựa vững chắc cho người dân. Sự phát triển và hoàn thiện từng bước của giáo lý đạo Hồi đã đóng vai trò quan trọng giúp cho những người tin theo tôn giáo này có được chỗ dựa vững chắc về mặt tinh thần và sức mạnh tinh thần đó trong nhiều trường hợp đã được hiện thực hóa thành sức mạnh kinh tế, chính trị để các quốc gia Arab xây dựng các vương triều hùng mạnh. Do xuất hiện với tư cách là một tôn giáo độc thần, người Arab cảm thấy đạo Hồi dễ thuyết phục hơn các điều kiện nặng nề phức tạp của Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo. Đạo Hồi chỉ yêu cầu các tín đồ trung thành đi theo một thánh thần duy nhất và tuân theo 5 trụ cột cơ bản. Hơn thế nữa, những luân lý của đạo Hồi đã thúc đẩy việc xây dựng xã hội Hồi giáo có những chuẩn mực đạo đức hết sức chặt chẽ. Chính những ưu điểm trên của đạo Hồi đã khiến người Arab trong những thế kỷ đầu tiên tiếp nhận Kinh Koran có ý thức xã hội, dân tộc và tinh thần đoàn kết, học hỏi không ngừng những tiến bộ của nền văn minh nhân loại.
2. KHUYNH HƯỚNG BIẾN ĐỘNG CỦA HỒI GIÁO HIỆN ĐẠI
2.1. Biến động tín đồ Hồi giáo trên thế giới.
Nghiên cứu về Hồi giáo cho thấy đến giai đoạn hiện nay, tôn giáo này đã nhanh chóng trở thành một trong hai tôn giáo lớn nhất thế giới[1] với tốc độ tăng trưởng tín đồ rất cao và hiện hữu tại mọi vùng, miền, mọi châu lục. Nghiên cứu mới đây của Pew Research Center[2] đã đưa ra thông tin mang tính tổng thể về sự phát triển mạnh mẽ của Hồi giáo thể hiện ở số lượng tín đồ Hồi giáo tăng nhanh tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Khảo sát tại hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ đã cho kết quả là tính đến năm 2009, toàn thế giới có khoảng 1,57 tỷ tín đồ Hồi giáo thuộc mọi thành phần dân số, mọi lứa tuổi và số lượng tín đồ này chiếm tới 23% dân số toàn cầu ước tính 6,8 tỷ người.
Số liệu về tín đồ Hồi giáo cập nhật mới nhất cho thấy sự gia tăng đáng kể về số lượng cũng như phạm vi ảnh hưởng của tôn giáo này trên khắp thế giới khi so sánh với một số ước tính trong thập niên 1990 cho rằng tín đồ Hồi giáo giai đoạn này có dưới 1 tỷ người. Khuynh hướng biến động của Hồi giáo nhìn nhận từ góc độ số lượng tín đồ cũng cho thấy nhiều đặc điểm đáng chú ý bao gồm:
- Trong khi tín đồ Hồi giáo hiện diện ở tất cả 5 lục địa lớn trên thế giới thì có tới hơn 60% trong số họ tập trung ở châu Á và khoảng 20% sinh sống tại khu vực Trung Đông và Bắc Phi (MENA)[3]. MENA cũng là khu vực tập trung cao nhất các quốc gia có Hồi giáo là quốc giáo và tín đồ Hồi giáo chiếm đa số trong dân chúng với số liệu cụ thể là hơn một nửa trong số khoảng 20 quốc gia, vùng lãnh thổ tại MENA có người theo đạo hồi chiếm hơn 95% dân số.
- Một số lượng lớn tín đồ Hồi giáo, ước tính hơn 300 triệu người hoặc 1/5 tổng số tín đồ Hồi giáo trên thế giới đang sống tại các quốc gia mà Hồi giáo không phải là tôn giáo chính. Đây thường là các quốc gia có dân số rất đông, đa dạng về sắc tộc, tín ngưỡng và Hồi giáo chỉ là một trong rất nhiều tôn giáo đang tồn tại ở các quốc gia này. Có thể lấy ví dụ như Ấn Độ là quốc gia đông dân thứ hai trên thế giới và cũng là nơi có cộng đồng Hồi giáo đông thứ 3 toàn cầu. Trung Quốc có nhiều tín đồ Hồi giáo hơn toàn bộ tín đồ Hồi giáo tại Syria, Liên bang Nga có đông người Hồi giáo hơn so với cả Jordan và Libya cộng lại.
Bảng 1. Phân bổ tín đồ Hồi giáo trên thế giới
Số lượng
(ngàn người)
|
% trong dân số
|
% trong tổng số tín đồ Hồi giáo
| |
Châu Á-Thái Bình Dương
|
972 537
|
24,1%
|
61,9%
|
Trung Đông và Bắc Phi
|
315 322
|
91,2%
|
20,1%
|
Châu Phi cận Sahara
|
240 632
|
30,1%
|
15,3%
|
Châu Âu
|
38 112
|
5,2$
|
2,4%
|
Châu Mỹ
|
4 596
|
0,5%
|
0,3%
|
Toàn thế giới
|
1 571 198
|
22,9%
|
100,0%
|
Nguồn: Pew Research Center’s Forum on Religion & Public Life, Mapping the Global Muslim Population, October 2009
Số liệu trong bảng 1 đưa ra minh họa rõ ràng về tình hình tín đồ Hồi giáo trên thế giới với tổng số ước tính trên 1,5 tỷ người. Số liệu thống kê cho thấy phần lớn tín đồ Hồi giáo (61,9%) sống tập trung tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương[4] và khu vực Trung Đông – Bắc Phi (20,1%) và châu lục có ít người Hồi giáo sinh sống nhất là châu Mỹ với tỷ lệ chiếm khoảng 0,3% tổng số tín đồ. Sự phân bổ tín đồ Hồi giáo trên thế giới như vậy đã phản ánh đúng thực tế về quá trình phát triển của tôn giáo này trong giai đoạn nhiều thế kỷ trong đó Trung Đông – nơi Hồi giáo ra đời đến nay vẫn là nơi sinh sống của đa số tín đồ và hầu hết đều ở các quốc gia có Hồi giáo là quốc giáo với số lượng tín đồ chiếm đa số trong dân chúng.
Khuynh hướng biến động của Hồi giáo và tín đồ Hồi giáo trong thời gian tới được dự báo là sẽ rất mạnh với diễn biến chủ đạo là sự gia tăng nhanh về số lượng tín đồ cũng như về sự hiện diện trên mọi vùng miền của thế giới. Nghiên cứu đầu năm 2011 về Tương lai của dân số Hồi giáo toàn cầu[5] đã đưa ra nhận định rằng số lượng tín đồ Hồi giáo sẽ tăng khoảng 35% trong vòng 20 năm tới và đạt khoảng 2,2 tỷ người vào năm 2030.
Bảng 2. Dự báo số lượng tín đồ Hồi giáo năm 2030
Số lượng (ngàn người)
|
% trong tổng số tín đồ
| |
Châu Á – Thái Bình Dương
|
1 295 625
|
59,2%
|
Trung Đông – Bắc Phi
|
439 453
|
20,1%
|
Châu Phi cận Sahara
|
385 939
|
17,6%
|
Châu Âu
|
58 209
|
2,7%
|
Châu Mỹ
|
10 927
|
0,5%
|
Thế giới
|
2 190 154
|
100,0%
|
Nguồn: PEW Research Center, The future of the Global Islam Population, Analysis, January 27, 2011.
[1] Hồi giáo và Thiên Chúa giáo hiện nay được xác định là hai tôn giáo lớn nhất thế giới (xét về số lượng tín đồ). Tuy nhiên, chưa có số liệu thống kê nào thực sự chính xác và đáng tin cậy để xác định đâu là tôn giáo có đông tín đồ hơn.
[2] Pew Research Center’s Forum on Religion & Public Life, Mapping the Global Muslim Population, October 2009
[3] Khu vực MENA – Middle East and Nord Africa là phân vùng riêng thường được sử dụng khi nghiên cứu về Hồi giáo và thế giới Arab bao gồm một bộ phận của châu Á và phần phía bắc của châu Phi.
[4] Châu Á – Thái Bình Dương trong nghiên cứu này bao gồm một vùng rộng lớn từ các nước phía cực Tây (Thổ Nhĩ Kỳ) đến các nước phía Đông (Trung Quốc, Nhật Bản).
[5] PEW research, The future of the Global Islam Population, Analysis, January 27, 2011.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét