Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013

Trung Đông - Bắc Phi: “chiến trường” trực tiếp của Mỹ


Trung Đông - Bắc Phi: “chiến trường” trực tiếp của Mỹ
Nguyễn Nhâm - Tạp chí Đảng Cộng sản
Hiện nay, Mỹ xác định hai chiến trường quan trọng cần giải quyết là khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Trung Đông - Bắc Phi. Trong đó khu vực châu Á - Thái Bình Dương là mục tiêu dài hạn, còn Trung Đông - Bắc Phi mà trực tiếp là vấn đề I-ran, Xy-ri đang là mục tiêu trước mắt.


Những thách thức
Hiện I-ran đang nổi lên như một cường quốc ở khu vực Trung Đông bất chấp các nỗ lực ngăn chặn của Mỹ và các nước đồng minh châu Âu. Đồng thời nước này đang đe dọa đến nền kinh tế Mỹ và phương Tây, khi mà những giao dịch tài chính sẽ không được thực hiện bằng đồng USD hay ơ-rô.
Nhận thức rõ những quan tâm của Mỹ đối vớiI-ran và Xy-ri, một số cường quốc mong muốn hình thành một liên minh chiến lược với I-ran như một biện pháp nhằm che chắn khỏisự xâm lấn địa - chính trị của Mỹ. Đó là lý do tại sao một số nước lớn đều không chấp nhận một cuộc chiến tranh chống I-ran, vì nếu I-ran sụp đổ sẽ trực tiếp gây ảnh hưởng đến an ninh của họ.
Sự cạnh tranh nêu trên đang hình thành mặt trận quốc tế gồm: một bên là các nước Mỹ, I-xra-en, Thổ Nhĩ Kỳ, Gióc-đan-ni; bên kia là các vương quốc dầu lửa trong vùng Vịnh; và bên thứ ba là I-ran, Xy-ri liên kết với một số cường quốc khác. Vì thế, những nỗ lực của Mỹ cho đến nay là nhằm làm suy yếu hoặc thay đổi chính thể cầm quyền hiện nay của I-ran và Xy-ri.
Để cô lập kinh tế và giảm mối đe dọa của I-ran, Mỹ đã và đang tiếp tục kêu gọi các nước ngừng nhập khẩu dầu từ nước này. I-ran là nhà sản xuất dầu mỏ lớn thứ 4 trên thế giới với tổng sản lượng vào khoảng 4 triệu thùng một ngày. Chỉ riêng doanh thu từ dầu mỏ của quốc gia này đã đóng góp 80% tổng doanh thu quốc gia của I-ran. Giới phân tích cho rằng, Mỹ đang tìm cách cấm vận nhằm làm mất 80% nguồn thu của I-ran, đồng thời gây sức ép lớn
lên nền kinh tế và người tiêu dùng nước này, với mục tiêu tạo sức ép kinh tế sẽ khiến người dân I-ran phát động phong trào phản đối chính quyền nước họ.
Quyết định cấm vận I-ran mặc dù được các nước đồng minh của Mỹ ủng hộ thực hiện nhưng cũng nảy sinh những tác dụng phụ đe dọa đến phát triển kinh tế không chỉ của châu Âu mà của ngay chính nước Mỹ. Theo nhà phân tích Oây-bơ (Weinberg) của Commerzbank, các chính sách của Mỹ đang ở thế bất lợi, đặc biệt là khi các mục
tiêu xung đột lẫn nhau và một số trường hợp cho thấy, việc trừng phạt I-ran sẽ khó có thể tránh khỏi làm tổn thương chính nước Mỹ cũng như các quốc gia đồng minh.
Trên thực tế, nếu kế hoạch hạn chế nhập khẩu dầu của I-ran thành công thì các đồng minh của Mỹ sẽ là những đối tượng chịu tác động trước tiên. Theo đó, một số nền kinh tế vốn đang rất mong manh như Hy Lạp sẽ bị thiếu hụt dầu trầm trọng. Liên minh châu Âu gồm 27 thành viên hiện mỗi ngày nhận từ I-ran 450.000 thùng dầu (tương đương khoảng 18% lượng dầu xuất khẩu của I-ran).
Mặc dù A-rập Xê-út đã bù vào chỗ thiếu hụt, nhưng các chuyên gia phân tích thị trường cho rằng với tốc độ tiêu thụ dầu mỏ như hiện nay thì nguồn cung này sẽ cạn kiệt trong thời gian ngắn, khiến giá dầu có thể tăng cao trở lại. Nền kinh tế các nước châu Âu hiện đang quá phụ thuộc vào nguồn cung từ I-ran cũng sẽ nguy kịch. Ngay cả với Mỹ, nếu giá dầu tăng cao cũng sẽ gây phương hại nghiêm trọng cho nền kinh tế đang “ốm” hiện nay.

Và quyết tâm của Mỹ
Ảnh hưởng to lớn của năng lượng dầu mỏ đến sự phát triển kinh tế trong giai đoạn khủng hoảng hiện nay là nguyên nhân trực tiếp khiến Mỹ quyết tâm thúc đẩy biện pháp kiểm soát Trung Đông - Bắc Phi. Xét trên góc độ địa - chính trị, ai kiểm soát được nguồn cung cấp dầu này sẽ kiểm soát được thế giới. Điều đó đã được chứng minh qua việc Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa - OPEC đã từng làm khuynh đảo kinh tế thế giới thông qua việc tạo ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào năm 1973 và 1979. Tương tự Nga cũng đã từng sử dụng vũ khí này để ép các nước châu Âu không được can thiệp vào công việc của các nước SNG - khu vực ảnh hưởng của Nga.
Mặc dù Mỹ là một trong 15 quốc gia có dự trữ dầu mỏ lớn nhất thế giới, đồng thời cũng sở hữu mỏ dầu lớn nhất có tên Piceance & Uinta Basins với trữ lượng khoảng 2.855 tỷ thùng. Trong khi Mỹ là nước tiêu thụ lượng dầu chiếm 25% sản lượng dầu thế giới, thì quốc gia này chỉ khai thác 9% và tích trữ khoảng 2% còn lại lấy từ các nguồn cung cấp bên ngoài. Với phương cách tiêu thụ và khai thác dầu như trên phần nào phản ánh ý đồ chiến lược của Mỹ là sử dụng năng lượng như một công cụ chính trị giúp nước này duy trì vị thế lãnh đạo thế giới.
Vì vậy, “Đề án Trung Đông Lớn” đã được triển khai cách đây 30 năm và nay Tổng thống Mỹ B.Ô-ba-ma đã đổi tên là “Đề án Trung Đông Mới”. Theo đề án này, Trung Đông được coi là khu vực cung cấp dầu lớn nhất thế giới
bao gồm các nước A-rập Xê-út có trữ lượng 262,79 tỉ thùng, I-rắc 143 tỷ thùng, I-ran 115 tỉ thùng. Đứng thứ 4 là Các Tiểu Vương quốc A-rập Thống nhất với 97,8 tỷ thùng và thứ 5 là Cu-oát 96,5 tỉ thùng. Vì thế, Trung Đông trở thành tiêu điểm trong chiến lược năng lượng toàn cầu của Mỹ. Bằng cách này hay cách khác, Mỹ xác định cần phải kiểm soát được Trung Đông vì đây là nguồn năng lượng của thế giới. Cách mạng “Mùa xuân A- rập” ở Tuy-ni-di, Ai Cập, Li-bi… về mặt động thái xuất phát có vẻ như từ tình trạng khủng hoảng kinh tế, chính trị và xã hội, nhưng thực chất nằm trong kịch bản “Đề án Trung Đông Lớn” nhằm nhanh chóng thay đổi chế độ cầm quyền, thiết lập ảnh hưởng trong thời kỳ “hậu cách mạng” theo Mỹ. Theo kịch bản này, hiện tại chỉ còn hai nước “dầu mỏ” đó là Xy-ri và I-ran chưa chịu tác động bởi đề án trên. Do đó, mục tiêu thay đổiChính quyền Xy-ri và I-ran là mục tiêu chiến lược mà Mỹ sẽ phải thực hiện.
Ảnh hưởng của các cường quốc lớn ngày càng gia tăng khiến Mỹ nóng lòng thúc đẩy giải quyết vấn đề Trung Đông - Bắc Phi càng sớm, càng tốt. Đây là con bài để Mỹ loại bỏ vai trò, ảnh hưởng và kiềm chế các đối thủ cạnh tranh. Đối với các nước mới nổi hiện đang gia tăng ảnh hưởng tại khu vực và trở thành quốc gia có tầm ảnh hưởng lớn nhất châu Phi thời gian gần đây đã gây quan ngại lớn cho Mỹ, buộc Mỹ phải có những bước đi ngăn chặn.
Trong những năm tới, khi cạnh tranh ngày càng gay gắt và mở rộng trên tất cả các lĩnh vực cả về không gian, địa lý và khi nền kinh tế thế giới ngày càng phụ thuộc vào năng lượng... thì vai trò của Trung Đông - Bắc Phi sẽ càng quan trọng, và cuộc cạnh tranh tại đây sẽ ngày càng gay gắt hơn nhiều. Vì vậy, kiểm soát khu vực này sẽ phá vỡ tổng thể những thành quả của các đối thủ của Mỹ đã đầu tư, gây dựng được tại đây.
Ngoài ảnh hưởng trên, Mỹ không chỉ muốn kiểm soát dầu mỏ I-ran cho mục tiêu kinh tế, mà còn muốn thiết lập một vành đai xung quanh đối thủ bằng cách kiểm soát an ninh năng lượng và kiểm soát giao dịch xuất khẩu dầu của nước này bằng đồng USD để đảm bảo việc tiếp tục sử dụng đồng USD trong các giao dịch quốc tế. Vì thế, các chiến lược gia cho rằng, dù ai chiến thắng trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vào ngày 6-11 tới thì “Đề án Trung Đông Mới” vẫn là mặt trận trực tiếp quan quan trọng mà nước Mỹ quyết tâm theo đuổi./.

Thách thức Trung Đông và Bắc Phi


Thách thức Trung Đông và Bắc Phi

Tân Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã quyết định thực hiện chuyến công du nước ngoài đầu tiên tới châu Âu và Trung Đông, trong khi người tiền nhiệm của ông, bà Clinton lại coi châu Á là khu vực được quan tâm hàng đầu. Với sự khác biệt này, giới quan sát quốc tế nhận định những thách thức ở Trung Đông và Bắc Phi sẽ chi phối nghị trình chuyến thăm, đồng thời cho thấy một nét mới trong chính sách đối ngoại tới đây của Nhà Trắng.
Chuyến công du Trung Đông đầu tiên của ông Kerry không thiếu những thử thách. Phong trào nổi dậy “Mùa xuân Ảrập” đã tạo ra những khoảng trống quyền lực, trong bối cảnh các chính phủ mới thành lập gặp khó khăn trong việc dẹp bỏ tham nhũng và mang lại những cơ hội kinh tế và an ninh mà những người biểu tình yêu cầu. Ai Cập đang đứng trước nguy cơ phá sản khi chỉ còn đủ tiền dự trữ để chi trả cho việc nhập khẩu lương thực và nhiên liệu trong 3 tháng nữa. Nước này cũng đang đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp lên tới 13% và lạm phát giá tiêu dùng đã ở ngưỡng 6,3%. Với những khó khăn về kinh tế, các cuộc biểu tình triền miên và thế bế tắc chính trị, Ai Cập đã trở thành một đối tác không ổn định đối với Mỹ.

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Cao ủy phụ trách đối ngoại EU Catherine Ashton
Trong khi đó, gần 70.000 người đã thiệt mạng trong cuộc nội chiến tại Syria, và bạo lực đã tràn sang Lebanon và Jordan khiến 850.000 người phải đi tị nạn. Nền quân chủ thân phương Tây của Jordan vốn giúp Israel có được một đường biên giới an toàn, đang phải đối mặt với bất ổn chính trị do liên quan tới tốc độ tiến hành cải tổ như đã cam kết trước đó. Chính phủ dân chủ non trẻ của Tunisia đang bị xáo trộn sau khi một quan chức chính trị của phe đối lập bị ám sát. Libya đã khôi phục sản lượng dầu mỏ và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) sau vụ lật đổ nhà lãnh đạo Muammar Gaddafi. Dù vậy, chính phủ mới còn non yếu không thể kiểm soát toàn bộ đất nước, dẫn tới việc kho vũ khí của Gaddafi rơi vào tay những quân nổi dậy Hồi giáo tại khu vực Sahel.
Quyết định của ông Kerry lựa chọn công du Trung Đông - vốn là nơi có nhiều các căn cứ quân sự Mỹ, là tuyến đường vận tải biển quan trọng, đồng thời là khu vực cung cấp khoảng 30% lượng dầu mỏ của thế giới - đã được các chuyên gia hoan nghênh. Nhà phân tích Michele Dunne - Giám đốc Chương trình Trung Đông tại Hội đồng Đại Tây Dương và là người từng cảnh báo về những nguy cơ có thể xảy ra khi Mỹ rút khỏi khu vực này - nói: “Tổng thống Obama đã thể hiện rất rõ rằng ông sẽ rút khỏi Trung Đông, và những thay đổi căn bản tại khu vực này có vẻ như không làm ông đổi ý. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng việc không hành động sẽ gây ra nhiều tổn thất và đẩy các lợi ích Mỹ đứng trước nhiều rủi ro lớn”. Giới phân tích cho rằng việc Syria sụp đổ có thể dẫn tới sự sụp đổ theo dây chuyền ở hàng loạt các quốc gia khác buộc chính quyền Obama phải can dự nhiều hơn, đặc biệt khi điều này có thể gây ra thêm các vụ xung đột sắc tộc tại Iraq.
Tại hai chặng dừng chân đầu tiên lần lượt ở Anh và Đức, Ngoại trưởng Kerry đã hội đàm với các nước đồng minh về vấn đề chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan tại Mali, tình hình kinh tế ngày càng xuống dốc của Ai Cập, cuộc nội chiến tại Syria đe dọa ổn định của khu vực và chương trình vũ khí hạt nhân gây tranh cãi của Iran. Ông cũng thể hiện mong muốn khẳng định vai trò nổi trội của Mỹ bằng cách làm ấm lại các cuộc đàm phán Israel-Palestine và giúp thương lượng một lối thoát cho Tổng thống Syria Basharal-Assad.
Chuyến công du này đã thể hiện chính sách ngoại giao mới của Washington, đó là khéo léo chuyển sự quan tâm khỏi châu Á và ngày càng tăng cường hướng tới châu Âu. Tyson Barker làm việc tại Quỹ Bertelsmann nói rằng sau nhiệm kỳ đầu tiên tập trung vào các mối quan hệ với các nước Thái Bình dương, Tổng thống Obama đang hy vọng có thể “củng cố và tăng cường một số mối quan hệ truyền thống”. Michael O’ Hanlon, một chuyên gia kỳ cựu chuyên nghiên cứu chính sách đối ngoại và quốc phòng, làm việc tại Viện Brookings, cho rằng ông Kerry đã quyết định đúng khi tập trung vào khu vực Trung Đông - nơi hiện đang có những vấn đề nghiêm trọng hơn so với châu Á.
Huỳnh Vũ

Putin công du Trung Đông - củng cố vị trí của Nga tại khu vực


Putin công du Trung Đông - củng cố vị trí của Nga tại khu vực

Nội dung chính trong chuyến công du của ông Putin sẽ tập trung vào các vấn đề nóng của khu vực này.  
Ngày 25/6, Tổng thống Nga Putin bắt đầu chuyến thăm tới một số nước Trung Đông và sẽ có các cuộc hội đàm với các nhà lãnh đạo Israel, Palestine và Jordan.
Tại Israel, Tổng thống Putin sẽ hội đàm với Thủ tướng Benjamin Netanyahu về hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa… và các vấn đề quốc tế mà hai bên cùng quan tâm như chương trình hạt nhân của Iran, tiến trình đàm phán giữa Israel và Palestine.
Các quan chức ngoại giao hai nước đều cho rằng, có thể hai nước còn một số bất đồng về các vấn đề quốc tế, song cuộc gặp này là rất quan trọng để hai bên trao đổi quan điểm ở cấp cao và hiểu biết lẫn nhau hơn. Năm 2011, kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt gần 3 tỉ USD và đang có nhiều triển vọng để tiếp tục tăng mạnh. Israel cũng là cường quốc công nghệ mà Nga đang hướng tới nhằm thực hiện chương trình phát triển nền kinh tế sáng tạo, cụ thể là dự án khu công nghệ cao Skolkovo đang bắt đầu được triển khai.

Ngay sau chuyến thăm tới Israel, ông Putin sẽ tới Palestine và hội đàm với Tổng thống Abbas. Nội dung chính mà hai bên cùng quan tâm sẽ là tình hình kiểm soát xung đột giữa Palestine và Israel, vai trò của “Nhóm bộ tứ” (gồm Nga, Mỹ, EU và LHQ) cũng như cộng đồng quốc tế đối với tình hình phức tạp hiện tại Trung Đông, Bắc Phi… Điểm cuối cùng trong chuyến công du 2 ngày tới Trung Đông của Tổng thống Nga là Jordan.
Trong cuộc gặp với quốc vương Abdalla II, hai bên cũng sẽ tập trung thảo luận các vấn đề nóng hiện nay của khu vực, nhất là tình hình Syria, Iran và triển vọng hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước. Bên cạnh các vấn đề quốc tế sẽ được thảo luận với các nhà lãnh đạo 3 nước Trung Đông trong chuyến thăm này, Tổng thống Nga Putin cũng sẽ tham dự nhiều hoạt động văn hóa, nhân văn nhằm củng cố quan hệ và vị trí của Nga tại khu vực quan trọng này./.

Tại sao Trung Đông lại quan trọng đối với Obama?


Tại sao Trung Đông lại quan trọng đối với Obama?



Trong khắp vùng này, các ngọn gió thay đổi đem lại cả sự hứa hẹn lẫn hiểm nguy. Vì vậy, ông Obama coi chuyến thăm này như một cơ hội để tái khẳng định mối liên kết không gì phá vỡ được giữa hai quốc gia Mỹ – Israel.
Tổng thống Mỹ Barack Obama đi qua hàng quân danh dự cùng Tổng thống Israel Shimon Peres trong chuyến công du Trung Đông của ông, tại phi trường quốc tế Gurion gần Tel Aviv, Israel, hôm 20.3. Ảnh: Getty Images
Ngày 20.3, ông Barack Obama bắt đầu chuyến công du đầu tiên kể từ 2008, kéo dài bốn ngày tại Trung Đông trên cương vị tổng thống Mỹ. Chặng dừng chân trước tiên dĩ nhiên là Israel, rồi tới Palestine và sau đó đến Jordan vào cuối tuần. Giới quan sát cho rằng, chuyến đi mang tính “thăm dò” này sẽ tái thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với tiến trình hoà bình Israel – Palestine. Chiến sự ở Syria và vấn đề hạt nhân của Iran cũng là những chủ đề chính trong các cuộc hội đàm.
Nhưng những mục tiêu bao quát hơn là ông Obama muốn được nhớ đến như một vị tổng thống đã chấm dứt hai cuộc chiến tranh, khôi phục hình ảnh và tầm ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới, khai triển chiến lược Á tâm, tiêu diệt đầu não của al-Qaeda và xây dựng nền tảng cho một kỷ nguyên không phổ biến hạt nhân.
Hãng AFP đánh giá, di sản toàn cầu mà Tổng thống Obama muốn để lại sau khi rời Nhà Trắng vào năm 2017 sẽ được định hình trong chuyến công du nước ngoài này.
Một cuộc thăm dò dư luận của tờ The Jerusalem Post cho thấy có đến 36% cho rằng ông Obama thiên về phía Palestine hơn là Israel, chỉ có 26% suy nghĩ ngược lại. Chương trình nghị sự giữa Tổng thống Mỹ với Tổng thống Israel Shimon Peres và Thủ tướng Netanyahu bao gồm các hồ sơ lớn: Iran, Syria và tranh chấp Israel – Palestine.
Cho dù Mỹ và Israel vẫn khẳng định là công cuộc hợp tác an ninh, kinh tế, tình báo giữa hai nước đã được tăng cường hơn bao giờ hết, nhưng người dân Israel vẫn tỏ ra nghi kỵ đối với ông Obama. Nhiều người đánh giá ông không có cảm tình với Israel như các vị tiền nhiệm Bill Clinton hay Jimmy Carter. Trong nhiệm kỳ hiện nay, tổng thống Mỹ thường nhấn Trung Đông được theo dõi kỹ, không chỉ ở Israel mà cả ở Mỹ. Ông bị chỉ trích là đã không đi thăm Israel trong nhiệm kỳ đầu tiên. Với chuyến đi này, ông muốn đánh bạt dư luận cho rằng ông không đủ thân thiết với Israel.
Trưởng đoàn đàm phán Palestine Saeb Erekat từ chối bình luận về chuyến công du của ông Obama, song ông cho biết Palestine sẽ trình bày ngắn gọn các đề nghị của họ đối với ông Obama. Ông Erekat cho rằng Tổng thống Obama và thế giới cần gây áp lực để Israel thừa nhận giải pháp hai nhà nước theo đường biên giới 1967. Một nguồn thạo tin Palestine cho biết, chính quyền Mỹ đã nói với đoàn đại biểu Palestine rằng chuyến thăm của Tổng thống Obama sẽ tập trung vào việc tìm hiểu tình hình các bên và chuẩn bị cơ sở thích hợp để tái khởi động các cuộc đàm phán hoà bình vốn đang giẫm chân tại chỗ. Tuy nhiên, các quan chức Mỹ cố làm giảm trông đợi rằng Tổng thống Obama sẽ cố đạt được tiến triển trong việc tái khởi động tiến trình hoà bình giữa Israel và Palestine. Những người ủng hộ các khu định cư của người Do Thái là lực lượng lớn trong chính phủ liên minh của Israel hiện nay.
Cuối cùng thì ông Obama và các nhà lãnh đạo Israel đã tái khẳng định sức mạnh của liên minh Hoa Kỳ – Israel. Tổng thống Obama giải thích lý do ông chọn Israel làm chặng dừng đầu tiên trong chuyến công du nước ngoài này: “Trong khắp vùng này, các ngọn gió thay đổi đem lại cả sự hứa hẹn lẫn hiểm nguy. Vì vậy tôi coi chuyến thăm như một cơ hội để tái khẳng định mối liên kết không gì phá vỡ được giữa hai quốc gia chúng ta, và một lần nữa nói lên cam kết bất di bất dịch của Mỹ đối với nền an ninh của Israel và nói chuyện thẳng với nhân dân Israel và các nước láng giềng của các bạn”. Thủ tướng Netanyahu tuyên bố ông có một thông điệp chủ yếu gửi cho ông Obama và nhân dân Mỹ: “Cảm ơn các bạn. Cảm ơn các bạn đã sát cánh cùng Israel vào thời điểm thay đổi lịch sử ở Trung Ðông. Cảm ơn các bạn đã khẳng định dứt khoát quyền của Israel được tự vệ, một mình, chống lại mọi mối đe doạ”.
Trần Hiếu Chân

Chiến lược của Trung Quốc tại Trung Đông


Chiến lược của Trung Quốc tại Trung Đông
(ĐNĐT)- Trung Quốc sẽ hợp tác và cạnh tranhnhưng sẽ tránh đối đầu với các nước phương Tây do Mỹ dẫn đầu ở Trung Đông.
Theo giới chuyên gia phân tích, kể từ thập niên 1990, Trung Quốc bắt đầu lấp khoảng trống mà Liên Xô để lại và không ngừng cải thiện quan hệ với các nước Trung Đông, đặc biệt là Iran, Syria và Ả Rập Xê Út. Tuy nhiên, theo tạp chí The Diplomat, các chuyên gia Trung Quốc tin rằng, chính phủ của họ vẫn thiếu các đòn bẩy mạnh để tạo ảnh hưởng trực tiếp cho các vấn đề Trung Đông và lâu nay vẫn đóng vai trò quan sát nhiều hơn.
Trong thập kỷ tới, Trung Quốc có khả năng tăng cường đầu tư của mình và do đó, đòi hỏi tiếng nói lớn hơn ở Trung Đông. Trung Quốc có thể là người đến trễ so với thế lực chính trị toàn cầu, nhưng vì sự tương tác sâu sắc với các nước lớn khác nên sẽ yêu cầu sự chú ý nhiều hơn ở Trung Đông.
Trung Quốc có khả năng tăng cường đầu tư của mình và do đó đòi hỏi tiếng nói lớn hơn ở Trung Đông
Trung Quốc có khả năng tăng cường đầu tư của mình và do đó đòi hỏi tiếng nói lớn hơn ở Trung Đông
Trung Đông là một khu vực nóng bỏng nhất với các vấn đề gây tranh cãi và căng thẳng đấu tranh ngoại giao. Do đó, cho phép Trung Quốc một cơ hội để truyền bá các nguyên tắc ngoại giao của mình là tôn trọng chủ quyền của các nước khác và phản đối bên ngoài can thiệp công việc nội bộ của một quốc gia, cũng như tăng cường quyền lực mềm.
Ngoài việc cung cấp cho Trung Quốc một cơ hội đảm bảo nguồn cung năng lượng, Trung Đông sẽ tiếp tục làm chậm tốc độ của sự chuyển dịch trọng tâm chiến lược về phía Đông của Hoa Kỳ vì các vấn đề phức tạp của nó.
Ngoài ra, các nước trong khu vực sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc trong thập kỷ tới khi trung tâm quyền lực toàn cầu tiếp tục dịch chuyển về phía Đông. Các nước Trung Đông coi Trung Quốc như là một đối tác quan trọng, có thể giúp họ mở rộng không gian quốc tế, cân bằng ảnh hưởng của các cường quốc trước đây và thúc đẩy phát triển kinh tế. Do đó, thập kỷ tới có thể chứng kiến chiến lược "hướng Đông" của các nước trong khu vực được đưa vào thực hiện.
Bên cạnh đó, đầu tư của Trung Quốc ở Trung Đông sẽ tăng dần để không làm xáo trộn sự cân bằng địa chính trị và kinh tế của khu vực này. Vì vậy, chính sách ngoại giao của Trung Quốc sẽ phải chuẩn bị để đối mặt với những thách thức của Trung Đông như thiếu an ninh và các thỏa thuận về tài chính.
Trung Quốc hiểu rằng các yếu tố bên ngoài khác cũng ảnh hưởng đến tình hình ở Trung Đông. Ví dụ, Trung Quốc đã phủ quyết nghị quyết của Liên Hiệp Quốc về cuộc khủng hoảng Syria được ba nước phương Tây ủng hộ, một phần vì những gì đã xảy ra tại Libya và sự chuyển dịch chiến lược về phía đông của Mỹ.
Trung Quốc sẽ hợp tác và cạnh tranh, nhưng sẽ tránh đối đầu với các nước phương Tây do Mỹ dẫn đầu ở Trung Đông. Quan hệ Trung-Mỹ không nên, và không thể “trắng tay” ở Trung Đông. Việc Mỹ sẽ mất vị trí thống trị của mình trong khu vực đang ngày càng trở nên rõ ràng. Tuy nhiên, đầu tư chiến lược của Trung Quốc ở Trung Đông sẽ không nhằm mục đích chấm dứt tầm ảnh hưởng truyền thống của Mỹ trong khu vực.
Trung Quốc chỉ vừa đặt chân ở Trung Đông và sự tham gia này không nhằm chấm dứt sự thống trị của Mỹ. Vì Trung Quốc không có lợi ích cốt lõi ở Trung Đông nên họ có thể đạt được một thỏa hiệp với Hoa Kỳ về các vấn đề khu vực.
Trung Đông sẽ tiếp tục gặp bất ổn và các cường quốc khu vực sẽ cạnh tranh để thiết lập quyền bá chủ trong thập kỷ tới. Trung Quốc sẽ cố gắng tạo sự khác biệt trong các vấn đề như vậy.
Vĩnh Thụy (tổng hợp)

Ngoại trưởng Nga thảo luận các vấn đề Trung Đông


Ngoại trưởng Nga thảo luận các vấn đề Trung Đông


Bộ trưởng Ngoại giao Nga, Sergei Lavrov đã có mặt tại Ai Cập. Hôm 1/12, ông gặp Ngoại trưởng Ai Cập Ahmed Abul-Gheit và một số nhà lãnh đạo cao cấp của nước này để cùng thảo luận về mâu thuẫn Israel-Palestine và những vấn đề khác tại Trung Đông.


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nga Mikhail Kamynincho biết, chuyến viếng thăm của Ngoại trưởng Sergei Lavrov tới Ai Cập lần này chủ yếu nhằm mục đích hòa giải mâu thuẫn giữa Israel và các nước Ả Rập.

Ngày 1/12, ông Sergei Lavrov sẽ hội đàm với người đồng cấp Ahmed Abul-Gheit và được hội kiến cùng Tổng thống Ai cập Hosni Mubarak.

Ông Izaat Saad el-Sayed, Đại sứ Ai Cập tại Nga nhận định: “Đây sẽ là cuộc gặp thứ 2, củng cố đối thoại chiến lược song phương Nga-Ai Cập. Mối quan hệ đối tác chiến lược hai nước chỉ mới bắt đầu vào tháng 10/2005.”

“Chính phủ Ai Cập hi vọng nhân chuyến thăm Ai Cập lần này, hai nước sẽ tìm ra biện pháp tháo gỡ mâu thuẫn về lãnh thổ Palestine, triển vọng thành lập một nhà nước Palestine độc lập và giúp đỡ chính phủ nước này vượt qua giai đoạn khó khăn đầu tiên”, Đại sứ Saad el-Sayed nói.

Ngoài ra, những vấn đề đáng quan ngại tại Trung Đông khác như Li Băng, Iran và Iraq cũng nằm trong lịch trình thảo luận.



Khủng hoảng Syria khơi mào chiến tranh giáo phái Trung Đông


Khủng hoảng Syria khơi mào chiến tranh giáo phái Trung Đông

(VOV) - Cuộc khủng hoảng Syria đã làm sâu sắc hơn tình trạng chia rẽ và đối đầu tôn giáo giữa hai dòng Hồi giáo Shiite và Sunni.
Cuộc khủng hoảng Syria kéo dài cũng như mối quan hệ căng thẳng giữa nước này và Thổ Nhĩ Kì đang tác động không nhỏ đến cục diện khu vực Trung Đông. Theo đó, sự xung đột mới nảy sinh giữa hai nước vốn được coi là “láng giềng thân thiện” này có thể làm sâu sắc hơn những tư tưởng phe phái và sắc tộc đã tồn tại bấy lâu nay tại khu vực Trung Đông. Các vụ bạo loạn mới đây ở Lebanon là minh chứng rõ nhất.
Các tay súng Hồi giáo Lebanon khiêng quan tài của 1 trong 4 nạn nhân trong vụ đụng độ sắc tộc ở miền Bắc Tripoli ngày 9/12 (Ảnh: Reuters)
Chính phủ của Tổng thống Assad nhận được sự ủng hộ từ các nhóm bộ lạc Alawite - một nhánh của cộng đồng người Shiite, đang tăng cường mối quan hệ với Iran và chính phủ của người Hồi giáo dòng Shiite ở Iraq. Trong khi đó, Thổ Nhĩ Kì lại liên minh với một số nước quân chủ tại Trung Đông do người Sunni đứng đầu. Vì vậy, cuộc khủng hoảng Syria đã làm sâu sắc hơn tình trạng chia rẽ và đối đầu tôn giáo giữa hai dòng Hồi giáo Shiite và Sunni tại Trung Đông.
Những tác động này được thể hiện rõ nhất trong các cuộc bạo loạn mới đây tại Lebanon. Cuộc khủng hoảng Syria đang gây nên tình trạng chia rẽ trong xã hội Lebanon do người Hồi giáo dòng Shiite ủng hộ chính quyền Tổng thống Syria, còn người Hồi giáo dòng Sunni ủng hộ phe đối lập. Một quan chức an ninh Lebanon cho biết, đụng độ sắc tộc tại nước này liên quan tới tình hình Syria đã xảy ra ở thành phố miền Bắc Tripoli ngày 9/12 làm ít nhất 4 người thiệt mạng và 40 người bị thương. Những người Hồi giáo Sunni ở thành phố cảng này đã bắn súng máy và rocket vào những người Hồi giáo dòng Shiite. Quân đội Lebanon đã được triển khai để kiểm soát tình hình. 

Alastair Crooke - Cựu hòa giải vấn đề Trung Đông của Liên minh châu Âu nhận định, cuộc nội chiến Syria đang có nguy cơ làm gia tăng một cuộc chiến giáo phái tại các nước láng giềng: “Cuộc khủng hoảng tại Syria đang tác động không nhỏ đến những nước láng giềng. Thậm

Trung Quốc muốn đắc lợi ở Trung Đông


Trung Quốc muốn đắc lợi ở Trung Đông

Giới quan sát nhận định với những động thái liên quan đến Trung Đông gần đây, Trung Quốc muốn gia tăng ảnh hưởng ở khu vực này.
Trung Quốc được cho là đang tận dụng căng thẳng giữa phương Tây với Syria và Iran để trở thành một đối tác có ảnh hưởng trong khu vực với những hoạt động liên tục. Cụ thể, Thứ trưởng Ngoại giao Địch Tuyển đến Syria trong 2 ngày 17 và 18.2 để bàn về cuộc khủng hoảng ở đây. Trước đó, Thủ tướng Ôn Gia Bảo công du Ả Rập Xê Út, Qatar và UAE trong tháng 1. Theo báo The New York Times, đây là chuyến thăm đầu tiên của một thủ tướng Trung Quốc đến Qatar và UAE từ trước đến nay. Cũng phải sau 2 thập niên mới lại có một người đứng đầu chính phủ Trung Quốc thăm Ả Rập Xê Út.
Mới đây, trang tin China.org.cn dẫn lời chuyên gia Trung Quốc Lâm Lương Tường nhận định: “Trung Đông là nơi chúng ta có thể chứng tỏ vai trò một siêu cường có trách nhiệm”.
Tạo dựng ảnh hưởng
Kể từ thập niên 1990, Trung Quốc không ngừng cải thiện quan hệ với các nước Trung Đông, đặc biệt là Iran và Ả Rập Xê Út. Hiện Iran là nước cung cấp dầu lớn thứ 3 cho Trung Quốc, sau Ả Rập Xê Út và Angola. Đổi lại, Trung Quốc xuất khẩu vũ khí cho 2 đối tác trên, theo tạp chí Middle East Quarterly.
Ngoài ra, ngay từ thời Trung cổ, Trung Quốc đã có quan hệ với Syria thông qua Con đường tơ lụa, theo Giáo sư Stephen Zunes tại Đại học San Francisco (Mỹ). “Ngày nay, Trung Quốc muốn dựng lại con đường thương mại này và đang tăng cường hướng tới Trung Đông để đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng”, ông Zunes nhận định trên chuyên trang về Trung Đông Middleeastvoices.com.
Trong bài bình luận đăng trên báo Los Angeles Times, 2 chuyên gia David Schenker và Christina Lin tại Viện Nghiên cứu chính sách Cận Đông có trụ sở tại Washington cho hay từ thập niên 1990, Trung Quốc bắt đầu lấp khoảng trống mà Liên Xô để lại ở Syria bằng cách cung cấp tên lửa cho nước này. Nhiều nhà quan sát phương Tây cho rằng Trung Quốc hiện không chỉ là nguồn cung vũ khí ổn định mà còn đầu tư mạnh vào việc hiện đại hóa ngành năng lượng của Syria.
Tuy nhiên, theo tạp chí The Diplomat, các chuyên gia Trung Quốc tin rằng chính phủ của họ vẫn thiếu các đòn bẩy mạnh để tạo ảnh hưởng trực tiếp cho các vấn đề Trung Đông và lâu nay vẫn đóng vai trò quan sát nhiều hơn.
 
Tổng thống al-Assad (phải) tiếp Thứ trưởng Địch Tuyển tại Damascus - Ảnh: AFP
Thời cơ đã đến?
Theo 2 nhà quan sát Schenker và Lin, bối cảnh tình hình mới ở Trung Đông và Bắc Phi do chính biến được Bắc Kinh xem là cơ hội “vàng” để giành chỗ đứng trong khu vực. Trung Quốc và Nga đã phủ quyết các dự thảo nghị quyết của LHQ kêu gọi Tổng thống Syria Bashar al-Assad từ chức. Đây là một trong những lần hiếm hoi nước này sử dụng quyền phủ quyết tại HĐBA LHQ. Tân Hoa xã dẫn lời Thứ trưởng Địch Tuyển phát biểu tại Damascus kêu gọi tất cả các bên chấm dứt tình trạng bạo lực và ủng hộ lộ trình cải cách của chính phủ Syria.
Ngoài ra, hồi tháng 10.2011, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ, một thế lực đang lên trong khu vực, đã nâng quan hệ song phương lên tầm chiến lược. Theo AFP, Phó chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến Ankara vào cuối ngày hôm qua để thảo luận với giới chức Thổ Nhĩ Kỳ về vấn đề Syria và thương mại song phương. Giới quan sát cho rằng Trung Quốc chọn Iran, Syria và Thổ Nhĩ Kỳ làm tâm điểm cho chiến lược Trung Đông của mình vì những nước này có quan hệ phức tạp hoặc có vấn đề với Mỹ.  Để bổ sung cho nhóm 3 nước này, Trung Quốc dường như đang nhắm tới Iraq và hiện là nhà đầu tư về năng lượng hàng đầu ở đây.
Bên cạnh đó, tuy Nga và Trung Quốc có cùng quan điểm về các vấn đề nóng bỏng hiện nay ở Trung Đông nhưng Moscow có thể sẽ khó chịu khi thấy Bắc Kinh muốn tăng ảnh hưởng ở đây. Hồi năm ngoái, trang tin WhatDoesItMean.com dẫn lời Bộ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly Serdyukov nhắc đến một thỏa thuận quân sự giữa Trung Quốc và Pakistan với giọng điệu lo ngại. Theo ông, với thỏa thuận này, Pakistan sẽ cho phép bộ binh Trung Quốc dùng đường cao tốc Karakoram để tiến thẳng vào Trung Đông khi cần thiết.
Trung Quốc chỉ trích phương Tây
Trong bài bình luận trên Nhân Dân nhật báo ngày 20.2, Giám đốc Khúc Hưng của Viện Nghiên cứu Trung Quốc nhận định quan điểm của một số nước về Syria “chủ yếu dựa trên các toan tính địa chính trị” và “nếu phương Tây tiếp tục hỗ trợ lực lượng đối lập Syria, cuộc nội chiến sẽ bùng nổ”. Trong khi đó, báo The New York Times dẫn lời 2 thượng nghị sĩ John McCain và Lindsey Graham tuyên bố Mỹ nên cấp vũ khí cho lực lượng đối lập ở Syira khi chính phủ nước này vẫn mạnh tay trấn áp người biểu tình.
Văn Khoa

Các Giáo hội Kitô tại Trung Đông: Những chuyển động hướng đến hiệp nhất


Các Giáo hội Kitô tại Trung Đông: Những chuyển động hướng đến hiệp nhất
Linh mục Frans Bouwen

Các Giáo hội Kitô tại Trung Đông: Những chuyển động hướng đến hiệp nhất
WHĐ (21.01.2013) – Một trong những nơi trên thế giới được đặc biệt chú ý trong Tuần lễ cầu nguyện cho sự Hiệp nhất các Kitô hữu, đó là Thánh địa Giêrusalem và vùng Trung Đông.
Nhà báo Christophe Lafontaine, chuyên về các vấn đề liên quan đến Kitô giáo tại Trung Đông, đặc biệt về đối thoại đại kết và về sự hiệp nhất các Kitô hữu, đã có cuộc phỏng vấn linh mục Frans Bouwen, thuộc Hội Thừa sai Phi châu (quen gọi Các cha Áo trắng), về cái nhìn của ngài về tiến trình đại kết tại Thánh địa và vùng Trung Đông.
Cha Frans Bouwen là một chuyên gia về các Giáo hội Đông phương và cuộc đối thoại với các Giáo hội Kitô phương Đông.
Bài phỏng vấn được đăng tại Trang tin điện tử của Tòa Thượng phụ Công giáo latinh Giêrusalem ngày 18-01-2013, mở đầu tuần Cầu nguyện cho các Kitô hữu được hiệp nhất
Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn.
* * *
– PVXin Cha cho biết cái nhìn tổng quát về vấn đề đại kết tại Thánh địa.
– Lm Frans Bouwen: Đại kết là một thực tại sống động, có thăng có trầm như cuộc sống con người và mọi tổ chức xã hội hiện có, vì thế khó mà đưa ra “bản kiểm kê” hoặc “bản tổng kết”. Điều chúng ta cần biết là hiện nay điểm nổi bật trong quan hệ giữa các Giáo hội tại Giêrusalem là tình huynh đệ và mối quan hệ này còn mang tính tự phát. Đây là một thực tế đang diễn ra ở cấp độ các vị lãnh đạo như giáo chủ, giám mục cũng như cấp độ các tín hữu. Nhìn chung, nhiều sáng kiến gần đây do các linh mục, mục sư cũng như giáo dân đề xướng đã cho thấy vấn đề đại kết đã bén rễ tốt tại cơ sở.
Giữa lúc có nhiều biến động đang diễn ra tại vùng Trung Đông, thì điều vừa nói có ý nghĩa rất quan trọng. Các tín hữu Kitô ý thức rõ, chỉ khi biết cộng tác với nhau mới kiến tạo được tương tai cho vùng đất này, và thật đáng khích lệ khi được biết có rất nhiều linh mục, giám mục đã mạnh mẽ ủng hộ nỗ lực của các Kitô hữu. Nhiều người trong chúng ta mong mỏi và hy vọng sẽ đẩy mạnh hơn nữa sự hợp tác mang tính đại kết này trong lĩnh vực mục vụ, dù biết vẫn còn nhiều trở ngại trên hành trình đại kết.
– PVThưa Cha, những quyết định của Thượng Hội đồng Giám mục về Trung Đông (tháng Mười 2010) liên quan đến đối thoại đại kết hiện đã được áp dụng chưa?
– Lm Frans Bouwen: Đầu tháng Mười Hai vừa qua đã diễn ra cuộc họp quy tụ đông đảo các thượng phụ giáo chủ, giám mục vùng Trung Đông, diễn ra tại Beirut, nhằm nghiên cứu và cổ võ việc áp dụng những phương hướng chính đã được THĐ về Trung Đông đề ra, và được hướng dẫn từ Tông huấn hậu THĐ Ecclesia in Medio Oriente (Giáo hội tại Trung Đông) do ĐTC Bênêđictô XVI gửi cho các Giáo hội tại vùng này, trong chuyến tông du của ngài đến Liban vào tháng Chín năm ngoái. Còn tại Giêrusalem, chúng tôi nhận được một số thông tin liên quan đến những quyết định cụ thể đã được thông qua. Mặt khác, hầu hết những quyết định đối với toàn khu vực Trung Đông cũng đã đề ra những tiên liệu khi áp dụng, do có những khác biệt, đôi khi khá lớn, về hoàn cảnh cụ thể tại địa phương.
Do đó trong khi chờ đợi, mọi người, từ giám mục, linh mục đến các tu sĩ nam nữ và giáo dân đều được mời gọi tìm hiểu thấu đáo tinh thần đại kết đã được ĐTC nhấn mạnh trong Tông huấn. Sẽ rất ích lợi nếu mọi người đều suy gẫm số 12 của Tông huấn: “Dựa trên những chỉ dẫn trong văn kiện Hướng dẫn thực hiện Đại kết (được HĐTT Cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu ban hành năm 1993 – T.T. chú thích), các Kitô hữu Công giáo có thể cổ võ tinh thần đại kết tại các giáo xứ, đan viện và tu viện, các trường phổ thông và đại học, các chủng viện. Các mục tử cần giúp các tín hữu quen với việc làm chứng cho sự hiệp thông trong mọi lĩnh vực của đời sống. Chắc chắn sự hiệp thông không phải là điều mơ hồ. Việc làm chứng đích thực đòi phải nhìn nhận và tôn trọng tha nhân, sẵn sàng đối thoại trong sự thật, biết lấy kiên nhẫn làm thước đo yêu thương, biết sống tinh thần đơn sơ và khiêm nhường của người nhìn nhận mình là kẻ có tội trước mặt Chúa và người lân cận, biết tha thứ, biết làm hòa và thanh tẩy ký ức trên bình diện cá nhân cũng như cộng đoàn”.
– PVCác Kitô hữu đang chuẩn bị sẵn sàng mừng lễ Phục sinh vào một ngày thống nhất, theo lịch Giulianô. Phải chăng đây là bước đầu tiên sẽ đưa đến những việc cụ thể khác nữa?
 Lm Frans Bouwen: Từ nhiều năm nay, các tín hữu Kitô tại Thánh địa không ngừng đề nghị được cùng mừng Chúa Phục sinh vào một ngày thống nhất. Đặc biệt đối với các gia đình theo các Giáo hội Kitô khác nhau, nhất là Công giáo và Chính thống giáo, họ cảm nhận rất cụ thể những phiền toái do sự khác biệt về lịch mừng lễ giữa Đông và Tây phương, có khi khác nhau đến 5 tuần lễ như trường hợp năm nay. Phần đông các tín hữu Kitô cho rằng: không thể cùng nhau mừng Chúa Phục sinh thì đã là một phản chứng rồi. Từ 15 năm nay, tại khu vực Ramallah, các giáo xứ Công giáo, Anh giáo và Tin lành Luther đều cùng mừng Chúa Phục sinh vào một ngày thống nhất, dựa theo lịch phương Đông. Vì vậy nên vui mừng khi thấy phẩm trật Công giáo quyết định tích cực đáp lại những mong mỏi của các tín hữu và phối hợp các sáng kiến. Còn quá sớm để đánh giá quyết định này tác động ra sao đối với tiến trình đại kết, hơn nữa phẩm trật Chính thống giáo Hy Lạp thường tỏ ra rất dè dặt về việc này. Chúng ta cầu nguyện và hy vọng sẽ có được kinh nghiệm tốt nhất trong năm nay, để trong một tương lai gần, sẽ thực hiện được việc phối hợp đại kết tốt nhất.
(fr.lpj.org, 18-01-2013)
 
Thành Thi chuyển ngữ

Bạo động tại Trung Đông có lợi cho Iran?


Bạo động tại Trung Đông có lợi cho Iran?


Làn sóng bạo động tại Trung Đông được đánh giá là cơn “địa chấn” chính trị khủng khiếp đối với địa chính trị thế giới Arập. Giới phân tích phương Tây cho rằng, tuy thời kỳ đầu làn sóng này cũng tràn vào Iran, song tác động của nó rất nhỏ, thậm chí hiện nay còn mang lại không ít lợi ích cho quốc gia Hồi giáo này.

Theo mạng “Đa chiều” ngày 21/4, chỉ mới năm ngoái, vấn đề hạt nhân của Iran vẫn còn hết sức căng thẳng, song cùng với tình hình chính trị bất ổn ở Trung Đông và Bắc Phi, Têhêran tạm thời không còn là tiêu điểm công kích của phương Tây. Iran nhờ đó cũng có một “không gian để thở” và điều chỉnh lại chính sách với các nước trong khu vực. Từ trước đến nay, để cô lập Têhêran, Mỹ và các nước phương Tây luôn tìm cách tạo dựng hình ảnh Iran như một “nguy cơ tiềm ẩn” đe dọa an ninh khu vực, song nay các nước Arập dường như đã bớt e ngại “nguy cơ tiềm ẩn” này khi họ đang phải đối mặt với “nguy cơ hiện hữu” đến từ bên ngoài.
Đài truyền hình quốc gia Iran ngày 19/4 đưa tin, sau cuộc hội đàm giữa hai ngoại trưởng của Iran và Ai Cập, chính phủ Iran đã quyết định bổ nhiệm ông Ali Akbar Sibuyen làm Đại sứ Iran tại Ai Cập. Ông Sibuyen sẽ trở thành Đại sứ đầu tiên của Iran tại Ai Cập sau 30 năm hai bên gián đoạn quan hệ ngoại giao. Trước đó, hồi tháng 2, tàu chiến Iran đã lại được đi qua kênh đào Suez lần đầu tiên kể từ năm 1979. Đây được xem là lợi ích thiết thực nhất mà Têhêran có được từ việc cải thiện quan hệ ngoại giao với Ai Cập.
Sau khi Tổng thống Ai Cập Mubarak từ chức, một số nhà phân tích Trung Đông nhận định, rất có thể Iran và Ai Cập sẽ sớm thiết lập quan hệ ngoại giao. Ngoại trưởng Iran Salehi hồi cuối tháng 3 vừa qua cũng bày tỏ rằng, Ai Cập và Iran có lịch sử quan hệ từ lâu, hy vọng tình hình mới có thể nâng cao quan hệ của hai nước lớn này trong khu vực. Tiếp đó, ngày 6/4, Ủy ban An ninh Quốc gia Iran cũng đã đồng ý nâng cấp quan hệ ngoại giao với Ai Cập và đang tiến hành nghiên cứu các vấn đề liên quan để đưa ra ý kiến về việc tạo cơ sở thiết lập quan hệ giữa hai nước…
Giới phân tích có chung nhận định rằng, việc Ai Cập bày tỏ mong muốn tăng cường quan hệ ngoại giao với Iran chính là một biểu hiện quan trọng trong việc điều chỉnh chính sách ngoại giao của nước này. Quan hệ ngoại giao Iran - Ai Cập bị gián đoạn từ cuối những năm 1970 là do Cairô muốn cầu hòa Ixraen, thu nhận Quốc vương Pahlavi bị Iran phế truất… Ngoài ra, các hành động thân Mỹ và Ixraen của Ai Cập trong các vấn đề Trung Đông những năm qua cũng khiến Iran bất mãn.
Ai Cập và Iran đều là những nước lớn trong khu vực. Mặc dù đều tranh giành ảnh hưởng tại khu vực, song về bản chất hai nước này không có xung đột lớn. Đội ngũ ngoại giao mới của Ai Cập cho rằng, kẻ thù hàng đầu của các nước Arập tại Trung Đông là Ixraen chứ không phải Iran, quan điểm này đã gạt mọi trở ngại trong việc hai nước khôi phục quan hệ ngoại giao. Sự xích lại gần nhau giữa Iran và Ai Cập khiến Ixraen có khả năng bị Ai Cập đối xử lạnh nhạt hơn.
Theo các nhà phân tích ở Trung Đông, trên thực tế, việc Ai Cập và Iran liên kết kiềm chế Ixraen là kết quả từ ý chí của cả hai bên. Với liên kết này, Iran có thể tăng cường sự chuẩn bị và cơ sở trong đàm phán và quan hệ với phương Tây; Ai Cập cũng có thể thông qua quân bài Iran để nâng cao vị thế của mình trong khu vực, giảm bớt sự phụ thuộc vào Mỹ.
Quan hệ giữa Iran với các nước vùng Vịnh hiện nay khá căng thẳng vì Têhêran bị chỉ trích là can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Trong chuyến thăm Arập Xêút của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates hôm 6/4, hai bên cũng đã đề cập đến vấn đề Iran. Ai Cập phát triển quan hệ với Iran tất nhiên sẽ phải đối mặt với sự chú ý theo dõi, thậm chí là chỉ trích, từ các nước vùng Vịnh. Ai Cập sẽ đối phó với vấn đề này thế nào, làm thế nào để cân bằng và bảo vệ lợi ích trong mối quan hệ phức tạp và rắc rối này? Đây thực sự sẽ là một cuộc khảo nghiệm lớn đối với ngoại giao Ai Cập.
Tất cả các dấu hiệu vừa qua đều cho thấy, việc Iran và Ai Cập nâng cấp quan hệ ngoại giao chỉ còn là vấn đề sớm hay muộn. Vấn đề hiện nay được dư luận quan tâm là việc khôi phục quan hệ ngoại giao giữa hai nước này liệu có mang ý nghĩa rằng Iran cũng đang thay đổi chính sách ngoại giao, nhất là đối với Mỹ, hay không? Phải chăng Iran đang tìm cách thay đổi mối quan hệ với Mỹ? Mặc dù ông Mubarack đã từ chức, song Ai Cập vẫn là một nước thân Mỹ trong khu vực và Mỹ vẫn là nước hỗ trợ chủ yếu cho Ai Cập.
Thành Dương (P/v TTXVN tại Hồng Công)

Vấn đề hoà bình Trung Đông: Thất bại về mặt ngoại giao của Mỹ và Israel

Vấn đề hoà bình Trung Đông: Thất bại về mặt ngoại giao của Mỹ và Israel 
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
Việc Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas chính thức trình lên Tổng Thư ký Liên hợp quốc (LHQ) Ban Ki-moon lá đơn xin gia nhập LHQ với quy chế quốc gia thành viên đầy đủ dành cho Palestine,  bất chấp sự ngăn cản của Mỹ và Israel, đánh dấu thất bại về mặt ngoại giao của Mỹ và Israel trong việc giải quyết vấn đề hoà bình Trung Đông.
 
Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas tại Ðại hội đồng LHQ, ngày 23-9. 
Ảnh: AP      
Các nhà phân tích cho rằng, cho dù kết quả cuối cùng như thế nào đi nữa thì ít ra, Palestine cũng đã giành được một thắng lợi lớn về mặt ngoại giao trong suốt 20 năm qua, kể từ tiến trình hoà bình Trung Đông chính thức được khởi động năm 1991.
Bất đắc dĩ
Động thái trên của ông Abbas cho thấy sự bất lực của Mỹ và cộng đồng quốc tế trong việc làm ông Abbas chùn bước. Theo kế hoạch, chiều 26-9 (theo giờ Mỹ), Hội đồng Bảo an (HĐBA) LHQ bắt đầu thảo luận về việc Palestine xin được công nhận là thành viên chính thức của LHQ. Tuy nhiên, theo các nguồn tin nước ngoài thì quá trình này có thể sẽ kéo dài trong vài tuần.
Theo các nhà phân tích quốc tế, việc Palestine đệ đơn xin gia nhập LHQ lần này là điều bất đắc dĩ, bởi những lý do sau:
Trước hết, việc Israel kiên quyết không dừng việc xây khu định cư Do Thái tại vùng đất chiếm đóng của người Palestine làm cho tình hình Trung Đông ngày càng căng thẳng. Tổng thống Abbas khẳng định chính sách xây dựng các khu định cư của Israel sẽ "hủy hoại những cơ hội" đạt được giải pháp hai nhà nước nhằm chấm dứt hàng thập kỷ xung đột giữa hai bên. Theo ông Abbas, chính sách nói trên của Israel không chỉ đe dọa cấu trúc của Chính quyền Dân tộc Palestine (PNA), mà thậm chí còn chấm dứt sự tồn tại của chính quyền này.
Thứ hai, Palestine muốn thông qua việc xin công nhận là thành viên đầy đủ của LHQ nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trước áp lực lực của Mỹ và Israel. Mặc dù Palestine biết rằng khó có thể giành được ngay tư cách thành viên đầy đủ của LHQ, nhưng việc xin gia nhập LHQ giúp cho Palestine thực hiện mong muốn quốc tế hoá vấn đề tranh chấp giữa nước này với Israel, kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận đường biên giới từ năm 1967. 
Trong diễn văn tại Đại hội đồng LHQ ngày 23-9, ông Abbas nhấn mạnh: “Đã đến lúc nhân dân Palestine được sống tự do độc lập trên lãnh thổ thuộc chủ quyền của mình, như mọi dân tộc trên thế giới”.
Ngoài ra, nếu được hưởng quy chế quốc gia đầy đủ thì Palestine sẽ có thêm cơ hội để tham gia nhiều tổ chức quốc tế khác, nơi mà Mỹ không có quyền phủ quyết như tại HĐBA LHQ để ngăn cản các hoạt động ngoại giao của Palestine. Hơn nữa, với tư cách là quốc gia độc lập, Palestine có quyền kiện các quan chức chính phủ và tướng lĩnh Israel lên Toà án Hình sự quốc tế (ICC) trong trường hợp họ phạm tội ác chiến tranh.
Chính sách Trung Đông của Obama bị phê phán
Nhiều tháng qua, Mỹ luôn muốn thuyết phục Palestine từ bỏ ý định gia nhập LHQ. Tổng thống Mỹ B.Obama nhiều lần khẳng định trên diễn đàn LHQ cũng như trong cuộc gặp giữa Tổng thống Palestine Abbas và Thủ tướng Israel rằng người Palestine vẫn phải có “quốc gia riêng”, nhưng quốc gia này phải được xây dựng trên cơ sở đàm phán hoà bình với Israel.
Ông Obama thừa nhận rằng người Palestine đã phải đợi quá lâu trong việc được LHQ công nhận là quốc gia độc lập thật sự. Tuy nhiên, ông cũng không đưa ra một phương án nào mới cho tiến trình hoà hình Trung Đông.
Dư luận thế giới cho rằng, Tổng thống Obama đang muốn tranh thủ tình hình thuận lợi cho cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ diễn ra vào năm 2012 tới. Tổng thống Obama không muốn cuộc đàm phán hoà bình tại Trung Đông thất bại, bởi điều đó sẽ ảnh hưởng hình tượng của ông trước thềm cuộc bầu cử đang tới gần. Hơn nữa, trong năm bầu cử (2012), ông Obama muốn dành nhiều thời gian giải quyết các vấn đề trong nước, như phục hồi kinh tế, tăng số việc làm...
Đánh giá về chính sách của Mỹ trong vấn đề này, nhà sử học Rashid Khalidi thuộc Đại học Columbia tại New York (Mỹ) cho rằng, ông Obama luôn đề cao tự do của người dân tại Nam Sudan, Côte d’Ivoire, Tunisia, Ai Cập và Libya, nhưng lại từ chối tự do cho người Palestine. Điều đó càng chứng tỏ chính sách của Mỹ “đã và đang là chướng ngại to lớn cho hòa bình nói chung, mà cụ thể là tại Trung Đông ”.
Còn ứng cử viên Tổng thống của đảng Cộng hoà, Thống đốc bang Texas, ông Rick Perry phê phán chính sách Trung Đông của Tổng thống Obama; cho rằng chính sách này “ấn trĩ, ngạo mạn, không rõ ràng và nguy hiểm” đẩy đồng minh Israel vào thế nguy hiểm.
Trong khi đó, nhóm “Bộ tứ”, gồm: LHQ, Mỹ, Nga, Liên hiệp châu Âu (EU), đã kêu gọi Palestine và Israel nối lại các cuộc thương lượng hòa bình trong vòng một tháng tới và cam kết đạt được một thỏa thuận vào cuối năm 2012. Tuy nhiên, đề xuất đó đã bị Bộ trưởng Ngoại giao Palestine Raid al-Maki phản đối. Ông al-Maki chỉ trích kế hoạch nói trên là không đầy đủ vì không bao gồm yêu cầu đòi Israel ngưng việc xây dựng khu định cư. 
Tổng thống Palestine M.Abbas tuyên bố sẵn sàng quay trở lại cuộc đàm phán với Israel với điều kiện Tel Aviv đình chỉ hoàn toàn chính sách xây dựng các khu định cư Do Thái.

Các đời Tổng thống Mỹ 'mất ngủ' vì Trung Đông


Các đời Tổng thống Mỹ 'mất ngủ' vì Trung Đông


Cũng giống như ngân sách và thuế, Trung Đông luôn là một phần tất yếu trong các chương trình nghị sự của bất kỳ tổng thống Hoa Kỳ nào.

Kể từ lúc Tổng thống Harry Truman công nhận nhà nước mới Israel vào năm 1948 bất chấp sự ngăn cản của Ngoại trưởng thời đó là George Marshall, cho đến những nỗ lực của Tổng thống Obama tuần này trong việc đối phó với những bạo lực mới phát sinh ở dải Gaza đều ghi dấu những thách thức của các chính trị gia Byzantine lên các tổng thống Mỹ.
Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat, trái, bắt tay với Thủ tướng Israel Menachem Begin dưới sự chứng kiến của Tổng thống Jimmy Carter bên ngoài một nhà nghỉ tại Trại David, Maryland vào ngày 07/09/1978.
Các tổng thống Mỹ đã có lúc thành công trên vài phương diện đối ngoại với Trung Đông trong lịch sử, tuy nhiên, có vẻ như thế giới Hồi Giáo này đang ngày càng từ chối những ảnh hưởng của quốc gia lớn nhất thế giới lên các vấn đề đang xảy ra trong chính nó. Hãy cùng điểm lại vấn đề Trung Đông dưới thời các tổng thống Mỹ.
Tổng thống Jimmy Carter ( 1977-1981)
Chính quyền của Tổng thống Jimmy Carter đã chứng kiến hai sự kiện quan trong lịch sử Trung Đông, một tốt, một xấu. Tốt: Ông đã làm trung gian cho hòa ước trại David năm 1979, thông qua một hiệp ước hòa bình giữa Israel và Ai Cập. Không tốt: Cuộc khủng hoảng con tin ở Iran năm 1979-1980 đã ảnh hưởng đến thời kỳ làm tổng thống của ông Carter, góp phần vào thất bại của ông trước Ronald Reagan trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1980 và nhiều thập kỷ xung đột giữa các trào lưu người Hồi Giáo chống lại phương Tây.
Ronald Reagan ( 1981 – 1989)
Bạo lực ở Li-băng và Libya đã ghi đậm dấu ấn những năm làm tổng thống của ông Robald Reagan. Tổng thống Reagan đã phái quân đội Mỹ tới Li-băng như là một phần của lực lượng gìn giữ hòa bình sau cuộc xâm lược năm 1982 của Israel chiến đấu với những người lính Palestine. Ngày 23/10/1983, một chiếc xe tải chưa đầy bom đã lao vào doanh trại Hải quân Mỹ tại sân bay Beirut, giết chết 24 lính Mỹ. Trong năm 1986, chính quyền Reagan cáo buộc nhà độc tài Libya Moammar Gadhafi đã cho phép ném bom một sàn nhảy Berlin và giết chết 2 lính Mỹ, hàng ngục người bị thương. Sau đó, tổng thống Reagan đã trả đũa bằng các cuộc không kích vào Libya.
George H.W. Bush (1989-1993): Tổng thống Bush cha là người đầu tiên chính thức khai nổ cuộc chiến tranh ở Iraq. Sau khi Saddam Hussein chiếm Kuwait năm 1990, Bush cha đã tập hợp được một liên minh quốc tế nhanh chóng trục xuất các lực lượng Iraq đang đóng tại các quốc gia Ả rập láng giềng. Tổng thống Bush và Ngoại trưởng James Baker sử dụng các động lực chính trị từ những gì đã xảy ra để tạo ra cuộc Chiến tranh vùng Vịnh, bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đàm phán hòa bình giữa Israel và Palestine, bắt đầu với một hội nghị ở Madrid, Tây Ban Nha.
Bill Clinton (1993 – 2001)
Khi Tổng thống Clinton nắm quyền, Thủ tướng Israel Yitzhak Rabin và Chủ tịch Tổ chức Giải phóng Palestine Yasser Arafat đã bắt tay nhau ở Nhà Trắng và cùng ký kết một hiệp ước hòa bình dự kiến sẽ bắt đầu từ ngày 13/09/1993. Tuy nhiên hòa bình đã không kéo dài, hai năm sau đó, một kẻ chống lại tiến trình hòa bình Israel đã ám sát Thủ tướng Yitzhak Rabin. Năm 2000, năm cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống của mình, ông Clinton đã tìm kiếm một “thỏa thuận cuối cùng” giữa người Israel và Palestine nhưng đã không thành công.
George W. Bush (2001-2009)
Dưới thời của Tổng thống Bush, các chính sách Trung Đông đã bị lu mờ bởi 2 sự kiện lớn: Cuộc tấn công khủng bố nước Mỹ ngày 11/9/2001 đã dẫn đến việc khởi động một cuộc chiến tranh với Iraq của ông Bush. Một tháng sau cuộc tấn công năm 2001, Tổng thống Bush cho phép hành động quân sự chống lại Afghanistan, nơi đã chứa chấp trùm khủng bố Osama bin Laden và tổ chức khủng bố al-Quaeda. Tiếp đó là cuộc chiến tranh Iraq nổ ra năm 2003, chống lại Sadam Hussein – sự việc vẫn còn gây tranh cãi và góp phần làm tăng thêm những xung đột vốn có giữa thế giới Hồi giáo và Mỹ. Điều đáng chú ý là ông Bush trở thành tổng thống đầu tiên của Mỹ kêu gọi tạo ra một nhà nước Palestine riêng biệt, hỗ trợ cho quốc gia mới này và đưa ra yêu cầu cam kết chung sống hòa bình với Israel.
Barack Obama (2009 – hiện tại)
Ngoại trưởng Hillary Clinton trong chuyến công du tới Trung Đông tuần này với nỗ lực tìm kiếm một lệnh ngừng bắn ở dải Gaza
Tổng thống Barack Obama hiện tại xem mối quan hệ tốt đẹp với thế giới Hồi giáo là ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, chính quyền Obama đang phải vật lộn với hậu quả của những biến động chính trị trên khắp Trung Đông, bao gồm cuộc cách mạng đòi lật đổ Tổng thống Hosni Mubarak ở Ai Cập, các hành động quân sự của Mỹ và NATO ở Libya lật đổ chế độ Gadhafi và hiện nay là bạo lực hoành hành ở dải Gaza. Chiến thắng lớn nhất của Tổng thống Obama trong khu vực này là đã giết chết Osama bin Laden, lãnh đạo al-Qaeda. Tuần này, ông Obama cũng đã cử Ngoại trưởng Hillary Clinton đến Trung Đông để tìm một lệnh ngừng bắn giữa Israel và Hamas, phe Palestine kiểm soát Gaza.
PHAN SƯƠNG