Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2012

Phong trào Mùa xuân Ảrập tiêu tốn bao nhiêu tiền?


Phong trào Mùa xuân Ảrập tiêu tốn bao nhiêu tiền?

Các cuộc biểu tình rộng khắp ở Bắc Phi và Trung Đông trong năm nay - được biết đến là Mùa Xuân Ảrập - đã tiêu tốn của khu vực này hơn 50 tỷ USD, theo một báo cáo mới. 


Số phận của Libya vẫn chưa rõ vì chiến sự vẫn diễn ra ác liệt ở các thành trì cuối cùng của đại tá Muammar Gaddafi. (Ảnh: AP)

Báo cáo của tổ chức tư vấn Geopolicity cho biết Ai Cập, Syria và Libya phải chịu chi phí về tài chính cao nhất. Tổ chức này cảnh báo rằng, nếu không có một chương trình hỗ trợ khu vực, các tác động của Mùa Xuân Ảrập có thể sẽ tụt giảm. 

Tuy nhiên, theo Geopolicity, những quốc gia dầu mỏ tránh hoặc ngăn chặn được làn sóng nổi dậy lại được lợi nhiều nhất.

Sử dụng dữ liệu của Quỹ Tiền tệ quốc tế, Geopolicity cho hay, các nước vừa trải qua xung đột hoặc những bất ổn dân sự tăng cao trong Mùa xuân Ảrập được cho là sẽ thiệt hại nhiều nhất về ngắn hạn.

Mặc dù vậy, báo cáo nêu rõ rằng không thể thống kê được phí tổn tài chính Mùa Xuân Ảrập năm 2011 một cách chính xác. "Không có nhiều chỉ dấu kinh tế quan trọng để sử dụng và tình hình hay thay đổi", Geopolicity nhấn mạnh. 

Lợi ích tổng thể
Libya, Syria, Egypt, Tunisia, Bahrain và Yemen đã chịu tác động nặng nề về kinh tế. Tổn phí đối với GDP lên tới 20,56 tỷ USD trong khi thiệt hại đối với tài chính công là 35,38 tỷ USD. 

Ở Yemen và Libya, tiêu dùng trong dân chúng giảm mạnh cùng với thu nhập công khi chính phủ sụp đổ. Thu nhập ở Yemen giảm 77% trong khi ở Libya, con số này là 84%. 

Những con số kể trên là tách biệt với những thiệt hại về người, cơ sở hạ tầng, kinh doanh và đầu tư trực tiếp nước ngoài. 

Tuy nhiên, toàn bộ khu vực đang được hưởng lợi về kinh tế từ Mùa Xuân Ảrập. Các nước giàu dầu lửa ngăn chặn hoặc tránh được làn sóng nổi dậy được cho là hưởng lợi nhiều nhất. 

Geopolicity nêu bật thực tế rằng UAE, Kuwait, và Ảrập Xêút nói riêng, đều tăng các doanh thu công. Ở Ảrập Xêút, tác động lên các thu nhập công là rất tích cực, tăng thêm 25%. Ở UAE, con số này là 31%. 

Tình hình bất ổn hiện nay ở Libya cần được chú ý đặc biệt. Báo cáo của  Geopolicity cho hay, số phận của Libya vẫn còn chưa được định rõ. 

Trên mặt trận chính trị, Geopolicity cho rằng dù kết cục cuộc chiến ở Sirte là gì, Hội đồng Chuyển tiếp quốc gia Libya vẫn phải đối mặt với một cuộc đấu tranh nhằm thuyết phục các trưởng bộ tộc và những người đòi quyền lãnh đạo.

Chỉ dẫn quan trọng
Khi đánh giá chi phí ở Libya đến thời điểm này, Geopolicity viết: "Xung đột ở Libya đã làm ngưng trệ các hoạt động kinh tế với phí tổn GDP khoảng 7,67 tỷ USD. Hơn 740.000 đã rời khỏi nước này kể từ khi xung đột bắt đầu, và sự gián đoạn nghiêm trọng trong ngành dầu lửa đã tàn phá quốc gia này". 

Peter Middlebrook, giám đốc quản lý của Geopolicity, cho biết, cuộc nghiên cứu đã diễn ra trong nhiều tháng và sẽ là sự trợ giúp quan trọng, như một chỉ dẫn cho G20, Liên Hợp Quốc và các tổ chức khu vực như Liên Đoàn Ảrập, và các nước bị ảnh hưởng bởi Mùa Xuân Ảrập. 

Những tháng qua đã được mô tả là thời kỳ hỗn loạn khu vực lớn nhất trong thế giới Ảrập kể từ những năm 1950. Báo cáo khuyến nghị Liên đoàn Ảrập và Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh cần phải chèo lái tiến trình cải cách ở bên trong, với sự giúp đỡ phối hợp từ bên ngoài.  

Thanh Hảo (Theo BBC)

Dầu mỏ và mùa xuân Ả Rập tại Ai Cập


Dầu mỏ và mùa xuân Ả Rập tại Ai Cập





NangluongVietnam - 
  “Mùa xuân Ả Rập” là làn sóng biểu tình trên diện rộng của người dân các quốc gia Trung Đông và Bắc Phi. Nhưng nổi bật nhất có lẽ phải kể đến các nước như: Ai Cập, Libya và Syrie, nơi những cuộc biểu tình quần chúng đã biến thành bạo động vũ trang. Nhằm đưa ra một cái nhìn hoàn toàn mới về năng lượng, đằng sau khái niệm “Mùa xuân Ả Rập” tại thế giới hồi giáo, Nangluongvietnam.vn xin giới thiệu bài phân tích của John Daly, Tổng giám đốc U.S.-Central Asia Biofuels Ltd (Hoa Kỳ) về vấn đề dầu mỏ tại chính trường Ai Cập. 

Mùa xuân Ả Rập tại Ai Cập
Diễn biến chính trường Ai Cập sau “mùa xuân Ả Rập”
Cuộc bầu cử Tổng thống tại Ai Cập là một bước tiến chính trị quan trọng - thành quả của “Mùa xuân Ả Rập”.
Ngày 25/5/2012, hơn 50 triệu cử tri Ai Cập đi bầu cử để chọn ra người lãnh đạo tương lai cho đất nước. Theo kết quả thống kê sơ bộ, đến thời điểm hiện tại, thì ông Mohammend Mursi, ứng cử viên của Đảng anh em Hồi giáo tự do và công bằng (hoặc được gọi là Đảng anh em hồi giáo) đã dành đa số phiếu bầu tại vòng đầu của cuộc bầu cử Tổng thống Ai Cập.
Người nổi bật thứ hai trong các ứng viên tranh chiếc ghế tổng thống Ai Cập là ông Gamal Abdel-Nasser, từng là tổng thống Ai Cập giai đoạn năm 1956 - 1970, cùng với hai cựu thủ tướng Ai Cập khác là ông Ahmed Shafig và ông Hamdeen Sabahi, ông Gamal Abdel-Nasser là chính trị gia theo phe cánh tả, trung thành với chủ nghĩa dân tộc và xã hội.
Trong các ứng cử viên, thì ông Mohammend Mursi và ông Gamal Abdel-Nasser là hai ứng cử viên dành được ủng hộ nhiều nhất từ dư luận.
Theo kết quả sơ bộ thì ông Mohammend Mursi đang dành ưu thế, nhưng vòng bầu cử cuối cùng sẽ diễn ra vào 16 - 17 tháng 6/2012, sẽ quyết định ai mới là tổng thống thực sự của Ai Cập. Kết quả bầu cử sẽ được thông báo vào ngày 21/6/2012.
Đảng anh em hồi giáo được dẫn dắt bởi ông Mohammend Mursi, địch thủ của ông Gamal Abdel-Nasser là đảng phái đã có công lớn trong tiến trình lật đổ cựu tổng thống Ai Cập, ông Mubarak.
Trong cuộc bầu cử năm 2011, Đảng anh em hồi giáo đã chiến thắng khi dành được gần một nửa số ghế tại Quốc hội Ai Cập.
Đảng anh em hồi giáo mới chỉ được công khai hoạt động sau khi ông Mubarak, cựu tổng thống Ai Cập bị lật đổ. Trước kia, mọi hoạt động của Đảng anh em hồi giáo đều phải diễn ra bí mật, họ bị cấm đoán bởi cả ông Mubarak lẫn ông Gamal Abdel-Nasser. Nhưng sau khi lật đổ ông Mubarak, người dân lại ra sức ủng hộ Đảng anh em hồi giáo.
Đảng anh em hồi giáo hứa hẹn, nếu lên cầm quyền, họ sẽ làm một cuộc “cách mạng phục hưng” trên khắp Ai Cập. Họ cam kết sẽ khắc phục những hậu quả tham nhũng mà ông Mubarak để lại, giúp Ai Cập vực dậy nền kinh tế và cơ sở hạ tầng, vốn bị phá hủy và tàn tạ dưới thời ông Mubarak.
Tất cả những lời hứa của Đảng anh em hồi giáo đều rất hấp dẫn với người dân, trừ việc họ cam kết sẽ sử dụng đạo luật hồi giáo khắc nghiệt Islamic Sharia làm quốc luật của Ai Cập, việc sử dụng đạo luật này khiến những người “hồi giáo ôn hòa” và những người Ai Cập theo thiên chúa giáo lo sợ.
Tương lai ngành dầu mỏ Ai Cập
Cho dù ai trở thành tổng thống đi chăng nữa, thì tương lai người đó sẽ phải đối mặt với rất nhiều vấn đề tài chính đau đầu. Không có người đứng lên điều hành, nền kinh tế Ai Cập đã bị thả nổi suốt 16 tháng, từ khi ông Mubarak đi lưu vong. Tỷ lệ thất nghiệp tăng lên chóng mặt và dự trữ ngoại tệ giảm xuống thảm hại.
Một trong những thất bại lớn nhất của chính quyền của cựu tổng thống Ai Cập, ông Mubarak là chính quyền của ông đã không giải quyết được các vấn đề kinh tế đang xuống dốc của Ai Cập. Ông Mubarak đã thất bại trong việc tìm ra một giải pháp hữu hiệu nhằm bình ổn giá xăng dầu và điện tăng cao, gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Ai Cập.
Nên vấn đề năng lượng sẽ là chủ đề nóng bỏng cho tân tổng thống của Ai Cập.
Xét về tiềm lực kinh tế quốc gia, Ai Cập không chỉ có dân số đông nhất Trung Đông, mà quốc gia này còn sở hữu những giếng dầu màu mỡ nhất của thế giới Ả Rập. Ai Cập cũng là địa điểm du lịch hấp dẫn trên thế giới và là cửa ngõ thông thương hàng hóa từ cả châu Âu, Trung Đông và châu Phi.
Chính vì nguyên nhân trên, mà không một nhà đầu tư nước ngoài nào rời bỏ Ai Cập, bất chấp những bất ổn chính trị và bạo lực leo thang, khi chính quyền ông Mubarak bị lật đổ.
Về tiềm năng dầu mỏ, ngày 24/5/2012, Tập đoàn Dầu khí Ý, Italy’s Ente Nazionale Idrocarburi (ENI) tuyên bố phát hiện mới một mỏ dầu tại vùng sa mạc phía Tây Ai Cập, cách thành phố Alexandria, Ai Cập, 180 dặm. Mỏ dầu đạt trữ lượng 3.500 thùng dầu và khoảng 28.000 foot khối (ft³) mỗi ngày.
Tập đoàn ENI cho biết, đây mới chỉ là một phát hiện nhỏ của tập đoàn tại vùng sa mạc phía tây Ai Cập, dự kiến tổng trữ lượng dầu thô ở trong vùng có thể lên tới 150 - 250 triệu thùng dầu thô. ENI ước tính tổng trị giá lượng dầu thô dự trữ tại vùng sa mạc Tây Ai Cập có thể lên tới 800 - 1 tỷ USD. Dự đoán năng suất khai thác của Tập đoàn ENI sau năm 2012 sẽ xấp xỉ 10.000 thùng mỗi ngày.

Tập đoàn dầu khí ENI đã đầu tư vào Ai Cập từ năm 1954 thông qua hình thức góp vốn vào Công ty dầu khí quốc tế Ai Cập (IEOC), Tập đoàn ENI sở hữ 56% lãi suất từ việc khai thác dầu tại vùng sa mạc Tây Ai Cập, 24% thuộc về công ty dầu khí Lukoil của Nga và 20% thuộc về công ty dầu khí Mitsui, Nhật.
Năng suất khai thác của 5 giếng dầu của các công ty tại vùng sa mạc Tây Ai Cập vào khoảng 36.000 thùng dầu mỗi ngày.
Thách thức cho tân tổng thống Ai Cập
Sau bầu cử, để chiếm được cảm tình của người dân thì chính quyền mới lên của Ai Cập không những phải có biện pháp tức thời cải cách kinh tế mà còn phải tỏ ra trong sạch hơn chính quyền tham nhũng của ông Mubarak.
Trước diễn biến của cuộc cách mạng “mùa xuân Ả Rập”, người láng giếng của Ai Cập là Ả Rập Xê Út đang lo ngại ảnh hưởng của cuộc cách mạng có thể lan sang quốc gia mình. Ả Rập Xê Út là quốc gia có nền quân chủ chuyên chế bám rễ rất lâu đời, mà mục tiêu của cuộc cách mạng “mùa xuân Ả Rập” chính là những quốc gia có chế độ độc tài, quân chủ chuyên chế.
Trái với phản ứng e dè, thận trọng của Ả Rập Xê Út, một quốc gia trong khối OPEC khác là Quatar, lại tỏ ra rất quan tâm đến Ai Cập sau những biến cố chính trị tại quốc gia này. Quatar dự kiến sẽ đầu tư một khoản tiền lớn vào ngành dầu mỏ Ai Cập. Đầu tháng 5 vừa qua, Công ty dầu khí Quatar Petroleum đã có một cuộc nói chuyện nghiêm túc với các lãnh đạo tạm thời của Ai Cập để bàn về kế hoạch xây dựng nhà máy hóa dầu tại đây.
Nhưng về lâu về dài, chắc chắn tổng thống tương lai của Ai Cập sẽ chịu áp lực nhiều từ dư luận người dân. Người dân Ai Cập đã đổ máu để lật đổ chế độ ông Mubarak, họ sẽ không muốn thấy sự hy sinh của mình là vô ích khi lại thay thế ông Mubarak bằng một kẻ độc tài khác.
Tân tổng thống Ai Cập sẽ phải cố gắng để duy trì chính sách hỗ trợ cho ngành năng lượng trong nước, duy trì mức giá xăng dầu, điện ổn định và trả các khoản nợ khổng lồ của quốc gia cho Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
Nếu tân tổng thống Ai Cập không hoàn thành được trọng trách của mình thì ông ta sẽ lại giống như Mubarak, đối mặt với hàng chục nghìn người biểu tình hò reo phản đối tại quảng trường Tahrir Square, Cairo, Ai Cập.
Không giống vị trí tổng thống độc tài và đầy quyền lực của ông Mubarak trước kia, tân tổng thống mới của Ai Cập sẽ giống như một diễn viên xiếc khi phải khéo léo lấy thăng bằng rồi đi bộ trên sợi dây chính trường tại Ai Cập.

Hữu Quang (NangluongVietnam.vn)

Tác động của Mùa xuân Arab đến tương lai mối quan hệ Ai Cập - Isarel


Tác động của Mùa xuân Arab đến tương lai mối quan hệ Ai Cập - Isarel


Những sự kiện bắt nguồn từ Tunisia trong tháng 1 năm 2011, sau đó lan rộng sang Ai Cập, Libya, Jordan, Morocco, Bahrain, Syria và một số quốc gia khác đã làm lay chuyển nền tảng chính trị, nhận thức và xã hội của khu vực Trung Đông. Biến động chính trị này cho tới nay vẫn chưa lắng hẳn và không ai dám chắc rằng khi nào nó sẽ kết thúc hay sẽ có một làn sóng biến động khác của dân chúng tiếp tục xảy ra. Tổ chức Anh em Hồi giáo (Muslim Brotherhood) đang gia tăng quyền lực ở Ai Cập, do đó một số câu hỏi được đặt ra là: Chúng ta có thể dự đoán gì về tổ chức Hồi giáo này? Vai trò nào của Hồi giáo sau sự sụp đổ của chế độ độc tài? Quan hệ của các tổ chức Hồi giáo đối với các nước láng giềng, đặc biệt là Israel sẽ ra sao? Triển vọng Hiệp ước hòa bình Israel-Ai Cập, hoặc Hiệp định David Camp sẽ thế nào?. Trước tiên, bài viết tập trung vào phân tích về quan hệ quốc tế ở Trung Đông, sau đó sẽ thảo luận những câu hỏi đã nêu trên.
1.  Lý thuyết quan hệ quốc tế ở Trung Đông
 Tính đặc thù của khu vực Trung Đông đã khiến các phân tích không thể dựa trên một phương pháp đánh giá nào về quan hệ quốc tế (Hinnebusch, 2003, p.1). Vì vậy, cần phải bắt đầu vấn đề bằng cách xem xét khu vực này dựa trên lý thuyết quan hệ quốc tế nào và các lý thuyết này giúp gì cho chúng ta hiểu và giải nghĩa các mối quan hệ quốc tế ở khu vực Trung Đông.
Trung Đông mặc dù có vị trí quan trọng trong bản đồ chính trị thế giới nhưng vẫn bị các học giả phương Tây thờ ơ trong việc phát triển hệ thống lý thuyết về khu vực này. Nhiều lý thuyết gia về quan hệ quốc tế cho rằng Trung Đông là khu vực quá phức tạp, không thống nhất nên không thể phát triển lý thuyết quan hệ quốc tế. Hơn nữa, theo Sasley (2011) thì đang có sự khác biệt rất lớn về tư tưởng giữa các nhà lý luận quan hệ quốc tế sử dụng Trung Đông làm trường hợp nghiên cứu và các chuyên gia quan hệ quốc tế ở Trung Đông. Ba học giả Fred Halliday, Raymond Hinnebusch và Anoushiravan Ehteshami đã thành công trong việc nghiên cứu về khái niệm quan hệ quốc tế ở Trung Đông, đều đã có những lập luận và phương pháp tiếp cận nghiên cứu khác nhau. Fred Halliday (2005) quan tâm đến hệ thống lịch sử xã hội, Raymond Hinnebusch và Anoushiravan Ehteshami (2002) xây dựng lý thuyết về chủ nghĩa hiện thực mới. Hinnebusch (2003) còn mở rộng cách tiếp cận nghiên cứu của mình bằng cách dùng nhiều lý thuyết khác nhau như xã hội học lịch sử, chủ nghĩa kiến tạo, cấu trúc luận và chủ nghĩa hiện thực mới để chứng minh cho phân tích của mình.
Nhưng theo Halliday, lý thuyết để có tính thuyết phục cần phải có những phân tích cặn kẽ và toàn diện, phải có bối cảnh lịch sử, phải có sự phù hợp giữa cơ sở phân tích và chương trình nghiên cứu, đồng thời phải có tính nhân văn. Ngoài ra, Halliday cho rằng nên phân loại lý thuyết quan hệ quốc tế thành các thuyết phân tích và thuyết chuẩn mực, theo đó các thuyết phân tích giải thích sự vận hành của các quan hệ quốc tế, còn các thuyết chuẩn mực đề cập đến các khái niệm và các chuẩn mực. Halliday đã chia lý thuyết phân tích quan hệ quốc tế ở Trung Đông thành 5 loại: phân tích lịch sử; phân tích chính sách đối ngoại; phân tích chủ nghĩa hiện thực hình mẫu và những biến đổi của nó; phân tích ý tưởng; xã hội học lịch sử và quốc tế. Phân tích lịch sử quan tâm đến lịch sử chính sách đối ngoại của một quốc gia và cố gắng giải thích tại sao và làm thế nào các hoạt động của nhà nước được tiến hành trong bối cảnh lịch sử đó. Những giải thích mang tính lịch sử cố gắng hướng vào các xã hội Trung Đông hơn là hướng vào những vấn đề của lý thuyết quan hệ quốc tế (Halliday, 2005, p 24).
Các học giả theo trường phái chủ nghĩa hiện thực trong quan hệ quốc tế thường đặt trọng tâm nghiên cứu về nhà nước, coi nhà nước là thể chế dẫn đầu và là nhân tố mà các lý thuyết phải đề cập đến, song trong trường hợp Trung Đông nhà nước đã đi ngược với các lý thuyết đó và các nhân tố phi nhà nước thường lại có vai trò kiểm soát hệ thống chính trị trong nước và khu vực (Halliday, 2005 , pp.27-30).
Hinnebusch và Ehteshami (2005) cho rằng, ở Trung Đông nhà nước là nhân tố chủ đạo trong chính sách đối ngoại và các nhà lãnh đạo có lợi trong việc tối đa hoá quyền tự trị và an ninh của nhà nước. Họ đồng ý với quan điểm của trường phái chủ nghĩa hiện thực cho rằng hệ thống nhà nước Trung Đông rất phức tạp và mang các đặc trưng riêng có. Theo Hinnebusch (2005), chủ nghĩa hiện thực mới cho rằng sự mất an ninh mang tính chất hệ thống đã dẫn đến hình thành hành vi điều tiết, cân bằng để chống lại những mối đe doạ, dẫn đến hình thành hệ thống nhà nước có chủ quyền thống nhất. Tuy nhiên, Hinnebusch cho rằng hệ thống nhà nước Trung Đông không mang tính thống nhất, các chấn động ở cấp hệ thống đã tác động lên hành vi của nhà nước.
Ông còn cho rằng, chính sách ngoại giao của các nhà nước Trung Đông được hình thành trong ba khung cảnh đã được công nhận khác nhau về mặt khái niệm. Thứ nhất là ở cấp độ quốc gia và ở cấp độ này ông dựa chủ yếu vào các lý thuyết về xây dựng nhà nước. Thứ hai là cấp độ khu vực và thứ ba là cấp độ toàn cầu, ở đó ông căn cứ vào các phân tích cấu trúc luận về quan hệ quôc tế nơi các quan hệ không cốt lõi được coi là đặc trưng của các nhà nước Trung Đông. Ông cũng cho rằng hệ thống quốc tế có ảnh hưởng trái chiều đến chính sách đối ngoại của các nhà nước Trung Đông.
2. Minh chứng bằng Mùa xuân Arab
Bài viết này đánh giá cuộc cách mạng Ai Cập nơi Tổ chức Anh em Hồi giáo đóng vai trò đứng đầu cuộc cách mạng và làn sóng nổi dậy của dân chúng (Johnson, 2011). Theo Barry Rubin, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu toàn cầu về vấn đề quốc tế (GLORIA), nguyên nhân dẫn đến cuộc cách mạng này là những sai lầm của chế độ dân tộc chủ nghĩa Arab đã thống trị thế giới Arab trong thời gian dài từ thập kỷ 1950 và đầu thập kỷ 1960. Chính quyền không còn đủ năng lực để thực hiện những lời hứa của mình, không nhanh chóng đạt được những tiến bộ xã hội và phát triển kinh tế, có quan điểm hủy diệt đối với Israel, không thoát khỏi ảnh hưởng của phương Tây. Tham nhũng, thiếu tự do, trì trệ kinh tế đã trở nên khá rõ ràng. Mặt khác, nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cuộc cách mạng này còn do sự bất bình của giới quan chức về việc thừa kế của con trai Tổng thống Mubarak và đặc biệt là đất nước đang trong tình trạng khó khăn về kinh tế.
Những người biểu tình dẫn đầu cuộc nổi dậy ở Ai Cập hầu hết là những người trẻ tuổi, tự do và cởi mở. Họ là những người đi đầu trong các cuộc biểu tình chống lại Hosni Mubarak, buộc ông phải từ chức và đồng thời họ là những người luôn có mặt trên các trang web như Twitter, Facebook để kêu gọi bạn bè của họ xuống đường biểu tình. Một trong những người dẫn đầu đoàn biểu tình là Wael Ghonim, 30 tuổi, là người điều hành trang Google, đã tập hợp đám đông tại Quảng trường Tahrir và trước đó anh này bị Cơ quan an ninh Ai Cập bắt giữ trong 12 ngày (Trager, 2011). Các nhà hoạt động này đã bác bỏ ý thức hệ tôn giáo và truyền thống như khuyến cáo của Ayatollah Ali Khamenei, kêu gọi tự do dân chủ, bình đẳng và khoan dung tôn giáo đồng thời kêu gọi chấm dứt chế độ độc tài (Dickey, 2011).
Để hạn chế sự nổi lên của các đảng Hồi giáo, phương Tây đã chấp nhận và bênh vực cho những chế độ độc tài tồi tệ nhất trong thế giới Arab, điều này đã dẫn đến xuất hiện các tổ chức Hồi giáo đối lập với họ, điển hình là Tổ chức Anh em Hồi giáo ở Ai Cập, một phong trào lớn được thành lập từ lâu và có sức ảnh hưởng chính trị lớn (Ramadan, 2011a). Hơn 60 năm qua, Tổ chức Anh em Hồi giáo đã hoạt động bất hợp pháp nhưng không bị dẹp bỏ. Tổ chức này đã chứng tỏ sức mạnh của mình trong việc vận động dân chúng trong mỗi cuộc bầu cử dân chủ nơi ít nhất họ đều có một  đại diện tham gia (Ramadan, 2011b).
3.  Tư tưởng và thế giới quan của Tổ chức anh em Hồi giáo
Mùa xuân Arab đã chuyển sang mùa hè Arab, nên các phong trào Hồi giáo đã nhanh chóng thành lập các đảng phái chính trị và huy động các chiến dịch quốc gia để đưa ra hình ảnh mới của họ trước cuộc bầu cử diễn ra vào mùa thu và mùa đông tới (Ghosh, 2011). Tổ chức Anh em Hồi giáo, một thực thể chính trị quan trọng tại Ai Cập đã thành lập Đảng Tự do và Công lý. Đã nảy sinh cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa đảng và Tổ chức Anh em Hồi giáo nhưng các nhà lãnh đạo của Đảng này đã tuyên bố rằng họ là một thực thể tự thân (Trager, 2011). Quan trọng là, Tổ chức anh em Hồi giáo đang lập kế hoạch hành động cho tương lai.
Essam el-Erian, một nhà lãnh đạo hàng đầu của Tổ chức anh em Hồi giáo tuyên bố rằng những điều họ đang làm rồi sẽ qua đi, và hiện nay họ cần xem xét lại họ sẽ làm gì (Ghosh, 2011). Tổ chức anh em Hồi giáo có thể sẽ đóng vai trò quyết định trong việc tái hình thành hệ thống nhà nước Ai Cập và chính sách đối ngoại của Ai Cập bởi vì tổ chức này được thành lập từ lâu và được lòng dân chúng. Tổ chức anh em Hồi giáo được thành lập vào những năm 1930 với tư cách là một tổ chức hoạt động hợp pháp, chống thực dân, là tổ chức phi bạo lực và ủng hộ kháng chiến vũ trang ở Palestine chống lại sự bành trướng của người Do Thái trước Chiến tranh Thế giới thứ II. Những bài viết vào giữa những năm 1930 và những năm 1945 của Hassan al-Banna, người sáng lập Tổ chức anh em Hồi giáo đã đề ra kế hoạch và đường lối hoạt động của tổ chức này, chống lại chủ nghĩa thực dân và chỉ trích mạnh mẽ chính quyền phát xít ở Đức và Italia (Ramadan, 2011a). Ông không chấp nhận việc sử dụng bạo lực ở Ai Cập, nhưng lại cho rằng bạo lực mang tính hợp pháp ở Palestin để chống lại chủ nghĩa phục quốc của người Do Thái và các băng nhóm khủng bố Irgun (Spencer, 2011a, p.602). Ông cho rằng mô hình nghị viện Anh là kiểu gần gũi nhất với các nguyên tắc Hồi giáo (Ramadan, 2011a).
Mục tiêu của Al-Banna là thành lập "nhà nước Hồi giáo" (Ramadan, 2011a) dựa trên nền tảng cải cách dần dần, trước tiên là thực hiện cải cách giáo dục cơ bản và các chương trình xã hội trên diện rộng. Vào năm 1949, ông đã bị chính phủ Ai Cập ám sát theo yêu cầu của phía chính quyền chiếm đóng (Ramadan, 2011b).
Sau cuộc cách mạng 1952 của Gamal Abdel Nasser, Tổ chức anh em Hồi giáo bị đàn áp mạnh mẽ và họ buộc phải hoạt động ở nước ngoài. Trong khi nhiều nhà lãnh đạo cấp cao và nhà lý luận của Tổ chức này bị bắt và bị tù đầy trong các nhà tù của Ai Cập, đồng thời nhà tư tưởng hàng đầu là Sayyid Qutb bị hành quyết thì tổ chức này đã may mắn tìm được hai nơi để tiếp tục hoạt động (Johnson, 2011). Nhiều thành viên của tổ chức này buộc phải sống lưu vong ở Saudi Arabia và chịu ảnh hưởng nhiều của hệ tư tưởng của giới tri thức Saudi Arabia, một số khác lưu vong ở các nước như Thổ Nhĩ Kỳ và Indonesia, nơi có nhiều cộng đồng người Hồi giáo cùng sinh sống. Số còn lại thì định cư ở phương Tây và được tiếp xúc trực tiếp với truyền thống tự do dân chủ của châu Âu (Rubin, 2010, trang 105-117).
Các nước phương Tây nghi ngờ về chương trình nghị sự của Tổ chức anh em Hồi giáo, một số cơ quan truyền thông thậm chí tuyên bố Tổ chức này có quan hệ với tổ chức khủng bố (Salih, 2009, pp.150-154). Ví dụ, tờ NewWeek đã công bố một hồ sơ cáo buộc Tổ chức anh em Hồi giáo sử dụng các nhà chính trị ôn hòa nhằm mục đích thực hiện trương trình nghị sự mang tính cực đoan (Dickey, 2011).
 Tuy nhiên, Tariq Ramadan, một học giả Hồi giáo xuất chúng đã bác bỏ những tuyên bố này và cho rằng phương Tây tiếp tục sử dụng chiêu bài “sự đe dọa của Hồi giáo” để biện minh cho sự thụ động của họ và nhằm tiếp tục hỗ trợ cho chế độ độc tài (Ramadan, 2011b). Tổ chức này đã tuyên bố rõ ràng rằng họ không sử dụng bạo lực, lên án chủ nghĩa khủng bố và không làm việc với các phần tử thánh chiến (Trager, 2011). Ngoài ra, tổ chức này còn được đánh giá là một phong trào xã hội nhiều hơn là một thực thể chính trị. Người dân nghèo Ai Cập lâu nay đã sử dụng các dịch vụ xã hội như trường học và trạm y tế miễn phí của Tổ chức anh em Hồi giáo (Ghosh, 2011).
Điều này cho thấy cần phải có những phân tích kỹ lưỡng hơn về Hồi giáo chính trị để hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa Hồi giáo, bởi thực tế Hồi giáo giữa các khu vực và trong các giai đoạn lịch sử luôn có sự khác nhau.
4.  Tổ chức Anh em Hồi giáo tiếp cận quyền lực và nỗi lo của Israel
Những thay đổi cơ bản đang diễn ra ở Trung Đông ​​có ảnh hưởng đến mối quan hệ của Israel với thế giới Arab (Marshall, 2011). Các quan chức Israel bày tỏ sự lo lắng của họ trong báo cáo nói về Mùa xuân Arab, đặc biệt là cuộc cách mạng ở Ai Cập. Israel lo lắng đến sự tồn tại của Hiệp ước hòa bình năm 1979 (Seale, 2011). Các nhà bình luận phương Tây thường mô tả Hiệp ước này là “trụ cột của sự ổn định khu vực”, là “hòn đá tảng của ngoại giao Trung Đông”, là "trung tâm của ngoại giao Mỹ" trong thế giới Arab nói riêng và thế giới Hồi giáo nói chung. Rõ ràng cả Israel và Mỹ đều hiểu được hiệp ước này quan trọng như thế nào đối với họ (Seale, 2011). Mặt khác, Hiệp ước hoà bình Israel-Ai Cập có thể được xem là một trong những điểm chiến lược đảm bảo sự trung lập của Ai Cập, sự thống trị quân sự của Israel ở  khu vực trong ba thập kỷ tới (Seale, 2011).
Tại thời điểm này, Israel đang bị cô lập ở Trung Đông. Israel có quan hệ ngoại giao chỉ với ba nước là Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và Jordan nhưng trong những tháng gần đây, đại sứ của Israel đã bị triệu hồi khỏi Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập. Nhà vua của Jordan là Abdullah thì chỉ trích rằng Israel "sợ chết" (Seale, 2011).
Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu bày tỏ rằng họ đang lo lắng và cũng đang theo dõi những gì đang xảy ra ở Ai Cập và trong khu vực (Dickey, 2011). Ông này cho rằng: Hòa bình giữa Israel và Ai Cập đã tồn tại trong hơn ba thập kỷ qua và mục tiêu của Israel là nhằm đảm bảo mối quan hệ này sẽ tiếp diễn (Mitnick, 2011).
Tại Ai Cập, quan điểm chống Israel đang ngày càng gia tăng. Quan điểm này ở các cấp độ có sự khác nhau: cấp độ quốc gia, các đảng phái chính trị, giới lãnh đạo, và những người dân bình thường. Một số đảng phái chính trị cấp tiến muốn đóng cửa kênh đào Suez để ngăn chặn tàu của Israel và ngừng bán khí đốt tự nhiên cho Israel. Đảng Tự do và Công lý cho rằng Hiệp ước năm 1979 cần phải được "xét lại" (Seale, 2011).
Tổ chức Anh em Hồi giáo và đảng mới của tổ chức này có vẻ nghiêng theo hướng sẽ không cam kết thực hiện hiệp ước hòa bình với Israel, hoặc sẽ đối đầu, do đó sẽ có sự thay đổi chiến lược quan trọng ở Ai Cập (Mitnick, 2011). Đảng Tự do và Công lý hiện chiếm đa số ghế trong Quốc hội mới của Ai Cập. Điều này có thể đưa chính sách ngoại giao của Ai Cập thoát ra khỏi lợi ích của Mỹ (Trager, 2011). Hệ quả là, Ai Cập thời kỳ hậu Mubarak sẽ cải thiện mối quan hệ với những nước đang đối đầu với Mỹ trong khu vực, đặc biệt là Iran, sẽ dèm pha Hiệp ước Trại David với Israel.
Hiện nay, chính kiến của người dân Arab về Hiệp ước Hoà bình Israel-Ai Cập hoàn toàn khác với thời các chính phủ cầm quyền trước đó trong khu vực. Theo kết quả điều tra của Trung tâm Nghiên cứu Pew, hai tháng sau khi cuộc cách mạng nổ ra, 54 % dân số Ai Cập ủng hộ lệnh bãi bỏ các thỏa thuận hòa bình với Israel, trong khi chỉ có 36% dân số muốn duy trì Hiệp ước đó và số người còn lại thì chưa có quyết định (Spencer, 2011b, p.778).
Chính phủ Israel sẽ gặp phải những vấn đề khó khăn trong tương lai bởi hầu hết những ứng cử viên chức tổng thống Ai Cập đều có quan điểm chống lại Israel. Ví dụ, Amr Mousa, một trong những ứng cử viên đó đã được một nhà ngoại giao phương Tây bình luận rằng sự nổi tiếng của ông ta là vì giống như một người theo chủ nghĩa dân tộc Arab chống lại Israel (Dan, 2011).
Nhìn nhận từ góc độ khác thì Sam Vaknin, biên tập viên chính của Tạp chí Chính trị Toàn cầu cho rằng cả Israel và Ai Cập đều được hưởng lợi rất nhiều từ sự hào phóng của Mỹ với số tiền từ 2-3 tỷ USD hàng năm cho mỗi nước và chắc chắn rằng quân đội Ai Cập sẽ không thích từ chối một khoản tiền viện trợ lớn như vậy. Hơn nữa, một nửa nhu cầu tiêu thụ khí đốt của Israel là nhập từ Ai Cập và hiện nay còn có cả những chương trình tình báo chung giữa hai nước (KA Khidhir, 30 / 11/ 2011).
Vaknin tái khẳng định rằng, Ai Cập cần duy trì hòa bình và thắt chặt quan hệ thương mại với Israel. Ngoài ra, Ateya al-Wayishi, một nhà văn người Ai Cập cho  rằng, cuộc cách mạng có thể có ảnh hưởng hạn chế đến quan hệ Israel-Ai Cập. Tuy nhiên, ông hy vọng rằng Hiệp ước hòa bình sẽ được sửa đổi, bổ sung, để đảm bảo lợi ích nhiều hơn cho Ai Cập.
Ngoài những quan điểm trên, Ramadan (2011a) tin rằng, cả Mỹ và châu Âu đều không muốn chống lại Israel và đều muốn người dân Ai Cập dễ dàng biến ước mơ tự do và dân chủ của họ trở thành hiện thực. Quá trình cải cách sẽ được giám sát bởi các cơ quan Mỹ phối hợp với quân đội Ai Cập vì họ đóng vai trò quan trọng của người điều phối.
Mùa xuân Arab đã tái cấu trúc mối quan hệ chính trị, thể chế và quan hệ quốc tế của khu vực Trung Đông. Ai Cập hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi mùa xuân Arab, bởi cuộc cách mạng đã lật đổ chế độ của Tổng thống Mubaraka, và đưa những nhà Hồi giáo chính trị đến quyền lực. Đảng Tự do và Công lý được thành lập và được dẫn dắt bởi Tổ chức anh em Hồi giáo là một tổ chức chính trị có ảnh hưởng rất lớn. Đảng này hiện đang được lòng dân chúng và chiếm đa số phiếu trong các cuộc bầu cử diễn ra gần đây. Những thay đổi chính trị hiện nay đã làm Israel lo lắng. Chính phủ Israel đặc biệt quan tâm đến Hiệp định hòa bình đã được ký kết với chính quyền cũ ở Ai Cập. Israel muốn duy trì hiệp ước này, nhưng các đảng chính trị, các ứng cử viên tổng thống và dân chúng Ai Cập đang có những quan điểm khác nhau về hiệp ước này. Bài viết đã bàn đến các tranh luận về những gì đã diễn và đưa ra các dự báo về những gì có thể sẽ đến.  
Nguồn Tạp chí nghiên cứu Châu Phi&Trung Đông
Koshan Ali Khidhir

“Mùa xuân Arập” hay những vụ đảo chính trá hình?


“Mùa xuân Arập” hay những vụ đảo chính trá hình?



Trong khi một số nhà quan sát nhìn nhận cái mà họ gọi là “Mùa xuân Arập” dưới góc độ tích cực, một số khác lại không nghĩ như vậy. Ông Eric Dénécé, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tình báo (CF2R) của Pháp, cho rằng các êkíp lãnh đạo ở Tuynidi và Ai Cập “không thay đổi là bao”, còn cuộc nổi dậy của dân chúng chỉ là những “cuộc đảo chính do phái quân sự dàn dựng”.

Trả lời phỏng vấn tạp chí Infos ngày 12/6, ông Eric Dénécé không tin các cuộc “cách mạng” đó nổ ra một cách “ngẫu hứng” mà chắc hẳn đã được chuẩn bị “từ nhiều năm trước”. Trong năm 2007 - 2008, nhiều hội nghị do các tổ chức phi chính phủ của Mỹ như Freedom House, International Institute hay Canvas đã được tổ chức với sự góp mặt của đông đảo blogger và thủ lĩnh các phong trào phản kháng. Các hội nghị này đã gieo mầm mống dân chủ và tạo ra một bối cảnh thuận lợi cho cách mạng sau này. Tiến trình này giống hệt tiến trình đã dẫn đến cuộc cách mạng ở Xécbia, cuộc cách mạng Cam ở Ucraina, cuộc cách mạng Hoa Hồng ở Grudia và sự tan rã của Liên Xô trước đây.

Lý giải tại sao “Mùa xuân Arập” mãi đến năm 2011 mới nổ ra, ông Eric Dénécé cho rằng các cuộc phản kháng của dân chúng hay sinh viên ở các nước Arập vẫn thường xuyên xảy ra, song lần nào cũng bị quân đội và cảnh sát đàn áp. Lần đầu tiên, quân đội không ủng hộ cảnh sát khi từ chối đàn áp các vụ nổi dậy ở Tuynidi cũng như ở Ai Cập, và các phong trào phản kháng đó được báo chí quốc tế đưa tin rộng rãi. Đặc biệt, trong tuần lễ trước khi nổ ra “cách mạng”, đại diện cấp cao nhất của quân đội Tuynidi và Ai Cập đã đến Oasinhtơn. Mỹ đã bảo đảm chu cấp gần như toàn bộ chi phí cho quân đội các nước này và bật đèn xanh cho họ lật đổ êkíp cầm quyền. 

Theo ông Eric Dénécé, năm 1979 ở Iran, năm 1991 ở Liên Xô cũng đã nổ ra các cuộc “cách mạng thực sự” dẫn đến những thay đổi cơ bản về con người, thể chế, mối quan hệ nội tại, mối quan hệ quốc tế... Tuy nhiên, các sự kiện mới đây ở các nước Arập không có gì giống như vậy mà chỉ là thay đổi các tầng lớp lãnh đạo. Với sự đồng ý của Mỹ, các cuộc đảo chính “êm dịu” đã được thực hiện ở các nước Arập thông qua việc lợi dụng và khai thác một cách thông minh làn sóng phản kháng của dân chúng. Theo ông Eric Dénécé, đối với Oasinhtơn, đó chỉ là sự “thay đổi mang tính liên tục” nhằm điều chỉnh đôi chút sự cân bằng trong khu vực, không giống như bản chất của các cuộc cách mạng. Oasinhtơn khuyến khích và ủng hộ quân đội các nước Bắc Phi và Trung Đông phát triển theo hướng đóng vai trò “kiểu Thổ Nhĩ Kỳ”, nghĩa là không nắm quyền - trừ trong trường hợp bất khả kháng - mà chỉ là người bảo đảm cho sự ổn định của đất nước chống Hồi giáo cực đoan và góp phần duy trì ổn định trong vùng, đồng thời không tỏ thái độ thù địch thực sự với Ixraen. 

Trần Mạch (P/v TTXVN tại Angiêri)

Tags

Mùa xuân A rập và thử thách dân chủ

Mùa xuân A rập và thử thách dân chủ 

Phỏng vấn ông Ala Al Aswani, nha sĩ kiêm nhà văn và chuyên viên phân tích tình hình các nước A rập

Ngày 9-9-2011 ông Ala Al-Aswani nha sĩ, nhà văn kiêm chuyên viên phân tích tình hình các nước A rập, sẽ tham dự đại hội văn chương tại tỉnh Mantova bắc Italia, để giới thiệu cuốn sách mới của ông có tựa đề là ”Cuộc cách mạng Ai cập”, và tham dự cuộc thảo luận bàn tròn về đề tài ”Cách mạng”. Bác sĩ cũng là tác giả hai cuốn tiểu thuyết nổi tiếng ”Dinh Yacoubian” xuất bản năm 2002, và ”Chicago” xuất bản năm 2006.

Ông Ala Al Aswani sinh năm 1957 và là con của văn sĩ Abbas Al-Aswani. Sau khi mãn bậc trung học tại một trường dậy bằng tiếng Pháp tại Ai Cập, ông đã theo học nha khoa tại đại học Illinois và Chicago bên Hoa Kỳ, và hiện nay vẫn hành nghề bác sĩ nha khoa.

Bác sĩ Ala Al Aswani cũng là một văn sĩ nổi tiếng thường xuyên cộng tác với các nhật báo đối lập, và gần gũi các nhà trí thức tả phái Ai Cập, đặc biệt là với nhà văn Sonallah Ibrahim. Tuy tuyên bố mình độc lập trên bình diện chính trị, nhưng ông là một trong những người đã thành lập phong trào phản đối Kifaya có nghĩa là ”Đủ rồi”. Chính phong trào này đã làm nảy sinh ra cuộc cách mạng dân chủ tại Ai Cập như chúng ta đã chứng kiến trong các tháng qua.

Ngoài ra bác sĩ còn là một cây viết nổi tiếng thế giới vì các phân tích sắc bén, chính xác, cũng như lòng can đảm và sự đam mê tố cáo các tệ nạn gây ra khổ đau cho xã hội Ai Cập, cũng như cho nhiều quốc gia khác trên thế giới. Ông miêu tả Ai Cập như là một quốc gia bị tước đoạt, thối nát, nghèo đói và bất động, nhưng sự tuyệt vọng của nó chỉ chờ đợi một tia lửa là bùng nổ và biến thành cuộc nổi loạn của toàn dân. Đó là điều đã xảy ra, khiến cho Ai Cập thoát khỏi chế độ cai trị độc tài. Theo bác sĩ Al Aswani mùa xuân A rập đã làm nảy sinh ra một ”quốc tịch toàn cầu” mới. Mặc dù còn có các cảnh bất ổn xảy ra nhưng đó là một trong các hoa trái qúy báu nhất của các cuộc nổi loạn của các dân tộc A rập. Các hoa trái đó đã làm sụp đổ trật tự vùng Trung Đông, mà chúng ta đã biết từ bao thập niên qua.

Tác phẩm mới nhất của bác sĩ là cuốn ”Nếu tôi không phải là người Ai cập”, bao gồm các bài viết hồi thập niên 1990, nhưng đã không bao giờ được phép xuất bản, vì sự chống đối của một nhân viên chính quyền.

Bác sĩ Al Aswani có lối viết thực tiễn và trực tiếp, khiến cho người đọc dễ hiểu và vì thế sách của ông rất được dân chúng ưa thích. Nhất là vì ông rất khéo léo trình bày cuộc sống của người dân Ai Cập trong tất cả mọi chiều kích khác nhau của nó, hấp dẫn đến độ dân chúng so sánh ông với nhà văn và tiểu thuyết gia Nagib Mahkfuz, người đã được giải Nobel văn chương 1988.

Bác sĩ Al Swani cũng là một người hoạt động thăng tiến dân chủ tại Ai Cập và trong thế giới A rập. Sự kiện giới trẻ xuống đường biểu tình tại các nước Âu châu cũng như khắp nơi trên thế giới chắc chắn đã lấy hứng từ các cuộc biểu tình của người dân Ai Cập tại quảng trường Tahkrir liên tục trong mấy tuần đưa đến thành công lật độ chính phủ của tổng thống Hosni Mubarak.

Hỏi: Thưa bác sĩ Al Aswani, ”Dân chủ là giải pháp duy nhất”: đó đã là khẩu hiệu của bác sĩ. Nhưng tại Ai Cập, nơi vic đánh đui ông Mubarak đã khiến cho toàn dân phấn khởi và dấy lên biết bao hy vọng, người ta nhận thấy các đe dọa nghiêm trọng đối với việc chuyển tiếp dân chủ. Điều này có khiếm cho bác sĩ lo lắng không?

Đáp: Tôi không ngạc nhiên về sự kiện này: mỗi một cuộc cách mạng đều phải đương đầu với các thúc đẩy chống lại cách mạng. Trong trường hợp của Ai Cập, có các thành phần của chính quyền cũ vẫn còn hiện diện khắp nơi, từ trong các phương tiện truyền thông cho tới các bộ, và họ hoạt động trong quyền hạn của họ để gây hỗn loạn, và ngăn chặn sự thay đổi dân chủ. Vấn đề đó là từ khi chính quyền của ông Hosni Mubarak sụp đổ cho tới nay, Hội đồng quân nhân lãnh đạo đất nước đang chứng minh cho thấy họ không có khả năng chống lại các lực lượng phản cách mạng này. Từ phía tôi cũng như từ phía các nhà trí thức, chúng tôi đã nhiều lần gặp gỡ các giới chức quân sự để góp ý kiến nhằm cụ thể hóa lý tưởng của các cuộc nổi dậy, nhưng các lựa chọn chính trị đã không đáp ứng đủ các chờ mong của dân chúng.

Hỏi: Thưa bác sĩ, cả cuộc khủng hoảng kinh tế cũng khiến cho người ta lo sợ: bác sĩ có nghĩ rằng nó có thể khiến cho các hăng say cách mạng của dân chúng bị nguội đi không?
Đáp: Chúng ta hãy thực tế: dưới thời tổng thống Mubarak 40% hay trong một vài vùng có tới 55% người dân Ai Cập phải sống dưới mức nghèo túng. Nạn thất nghiệp cao tận trời xanh, và đây đã là một trong các lý do làm nảy sinh ra cuộc nỗi dậy của dân chúng. Trong khi hiện nay, hiển nhiên không phải là lỗi của những người đã khiến cho chế độ sup đổ, nhưng là của Hội đồng quân nhân, bắt đầu nắm quyền tổng thống và quốc hội, sau khi chế độ Mubarack sụp đổ.

Hỏi: Bác sĩ có sợ khuynh hướng hồi giáo qúa khích không?

Đáp: Cả về phía này nữa, cũng có các thành phần của chế độ cũ đang làm tất cả những gì có thể làm được để phơi bầy bóng ma của cuộc xung đột giữa các giáo phái thường là bằng cách dưỡng nuôi bao lực. Điều khiến cho tôi lo sợ đó là các nhân viên an ninh, là các kẻ tội phạm đã tra tấn hàng trăm ngàn người vô tội, và họ vẫn còn tự do hành động. Cần phải có các luật lệ dân chủ bảo vệ tất cả mọi người dân.

Hỏi: Các người trẻ đã khơi dậy cuộc cách mạng dân chủ và các thay đổi sẽ có vai trò và thế đứng nào trong các xã hội A rập mới thưa bác sĩ?
Đáp: Hầu như gần phân nửa tổng số dân Ai Cập là người trẻ dưới 30 tuổi. Khi chúng ta nói tới giới trẻ, chúng ta đụng tới những giai tầng to lớn trong các xã hội A rập. Sau cuộc cách mạng tôi đã gặp biết bao nhiêu bạn trẻ chuyên nghiệp Ai cập như các bác sĩ, kỹ sư, sống bên Âu châu hay trong vùng vịnh Ba Tư, và họ đã quyết định hồi hương để góp phần xây dựng một đất nước Ai Cập mới. Tôi nghĩ rằng với nền dân chủ sẽ có các cơ may cho tất cả mọi người, vì thế tôi là người đầu tiên không chịu được sự chậm chạp của việc chuyển tiếp. Nhưng tôi xác tín rằng chúng tôi đã châm ngòi cho một sự thay đổi không thể quay trở lại đàng sau được nữa. Chúng tôi không trở lại đàng sau.

Hỏi: Bác sĩ có nghĩ rằng Mùa Xuân A rập sẽ còn lan rộng ra trong vùng hay không?

Đáp: Có chứ, tôi tin là cuộc cách mạng dân chủ, Mùa Xuân A Rập sẽ lan tràn trong vùng. Tôi cảm thấy chắc chắn như vậy. Ngày nay chúng ta đang chứng kiến việc kết thúc của một kỷ nguyên trong thế giới A rập: đó là ngày tàn của các chế độ độc tài. Chắc chắn là tình hình không phải ở đâu cũng như nhau, bởi vì mỗi quốc gia có các điều kiện riêng biêt, nhưng chúng tôi đang bắt đầu một tương lai mới.

Hỏi: Thưa bác sĩ các nhà trí thức Ai Cập đã nắm giữ vai trò nào trong bối cảnh cách mạng dân chủ này?

Đáp: Chúng tôi phải đứng hàng đầu trong việc đòi hỏi công bằng và các quyền con người, và nhập cuộc vào mọi tranh đấu của người dân. Đàng khác, tôi không thể tưởng tượng được rằng một người như tôi đã kêu gọi và cổ võ thay đổi từ 30 năm nay, giờ đây đã có sự thay đổi, lại có thế đứng ngoài nhìn mà không dấn thân làm gì cả.

Hỏi: Chỉ còn vài ngày nữa là tưởng niệm biến cố khủng bố xảy ra tại Hoa Kỳ ngày 11 tháng 9 năm 2001, mở màn cho cuộc chiến của Hoa Kỳ và các nưc đồng minh chống lại phong trào hồi giáo khủng bố phá hoại, cũng như làm thay đổi cục điện nhiều nước trên thế giới. Bác sĩ nhận thấy tương quan giữa thế giới hồi giáo với Tây Âu như thế nào?

Đáp: Tôi không tin vào các phạm trù này, và xem ra người dân thường cũng không tin vào chúng. Ở bất cứ nơi đâu trên thế giới này con người đều bình đẳng với nhau, họ muốn có công ăn việc làm, và tạo dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho con cái của họ. Khuynh hướng cực đoan là một đe dọa nghiêm trọng đối với tất cả mọi người, tín hữu kitô cũng như tín hữu hồi giáo. Ben Laden đã không chỉ chống lại tây âu mà ông ta cũng đã chống lại tôi, chống lại tư tưởng tự do của tôi, chống lại niềm tin của tôi nơi nền dân chủ nữa. Đàng khác khi các dân tộc A rập chúng tôi xuống đường biểu tình đòi dân chủ, thì đã có biết bao nhiêu người đó đây trên thế giới ủng hộ chúng tôi, trong khi các chính quyền, kể cả các chính quyền vùng Trung Đông tìm cách câu giờ lần lữa và tính toán các lợi lộc. Nhìn thấy giới trẻ huy động nhau đòi dân chủ từ Trung Đông cho tới các phần đất khác trên thế giới, khiến cho tôi tràn đầy hy vọng.

(Avvenire 4-9-2011)

Linh Tiến Khải

Mùa xuân Arab, triển vọng các lợi ích của Mỹ và hợp tác an ninh trong thế giới Arab


Mùa xuân Arab, triển vọng các lợi ích của Mỹ và hợp tác an ninh trong thế giới Arab

Mùa xuân Arab đang diễn ra sâu rộng tại Trung Đông hiện nay có ý nghĩa quan trọng đối với chính phủ Mỹ. Nhìn chung, sự nhân rộng các chính phủ ít tham nhũng và dân chủ hơn tại khu vực Trung Đông sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Mỹ, bởi vì các chính phủ đó sẽ không còn theo đuổi đường lối chính trị cấp tiến, trở nên ôn hòa hơn, ổn định hơn và tư duy rộng mở hơn. Tuy nhiên, mỗi nước trong phong trào  Mùa xuân Arab cần phải được nghiên cứu một cách riêng biệt, và cần phải hiểu rằng dân chủ không phải là một kết quả tất yếu cho bất cứ quốc gia nào tham gia vào phong trào nổi dậy hiện nay. Nhiều cuộc cách mạng bắt đầu rất suôn sẻ nhưng kết thúc lại thất bại. Do đó, những đánh giá về lợi ích của Mỹ trong vòng xoáy của các sự kiện này cần phải được đưa ra một cách thận trọng. 


Mùa xuân Arab khiến chúng ta liên hệ đến cuộc Cách mạng Iran ở một số điểm, tuy nhiên hai cuộc cách mạng này có nhiều khác biệt hơn là tương đồng. Năm 1979, Cách mạng Iran được châm ngòi, nuôi dưỡng và củng cố về cơ bản là do có những thế lực chống đối Mỹ và đặc biệt là do những hoạt động của quân đội Mỹ tại Iran. Cho đến nay, hầu hết những biến động rầm rộ của Mùa xuân Arab hoàn toàn xuất phát từ những vấn đề nội tại của các quốc gia này và Mỹ không có vai trò trung tâm hoặc quan trọng trong việc giải quyết những bất đồng giữa lực lượng chống đối và chính phủ. Hơn thế, mối quan tâm hiện nay của Mỹ chủ yếu vẫn là nghèo đói, tham nhũng, thất nghiệp và sự thiếu hụt các tổ chức dân chủ. Thêm vào đó, trong giai đoạn 1979-1980, Iran với tư cách là một nhà sản xuất dầu mỏ lớn, có đủ khả năng phá vỡ quan hệ với Mỹ mà vẫn có thể bảo đảm các khoản trợ cấp để trấn an tầng lớp dân nghèo thành thị đang đóng vai trò quan trọng trong việc lật đổ vua Shah. Trái lại, những chính phủ hậu Mùa xuân Arab đã sai lầm khi theo đuổi chủ nghĩa  thực dụng để kêu gọi viện trợ và đầu tư quốc tế, điều đặc biệt sống còn đối với những nền kinh tế không có hoặc có ít dầu mỏ. Nói một cách thẳng thắn, giới lãnh đạo chính trị mới sẽ không có ảnh hưởng chính trị hay khả năng trấn áp để yêu cầu dân chúng hy sinh nhiều hơn nữa nhằm thách thức phương Tây. Nhân dân không thể ăn bằng những lời nói suông của chính phủ và sẽ lại nổi dậy nếu các chính phủ thời kỳ hậu cách mạng tiếp tục thất bại trong việc đáp ứng nhu cầu vật chất cơ bản của họ.
Trở lại với những trường hợp cụ thể, Mỹ hiện tại đang duy trì quan hệ tốt với những chính phủ cách mạng mới tại Ai Cập và Tunisia. Trong cả hai trường hợp, đặc biệt là Ai Cập, có những lý do thuyết phục để hai bên tiếp tục hợp tác trong các vấn đề kinh tế và quốc phòng. Cairo có thể trở nên độc lập và quyết đoán hơn trong tương lai, nhưng lợi ích của nó vẫn phụ thuộc vào việc duy trì mối liên hệ chặt chẽ với phương Tây. Lợi ích của Tunisia cũng nằm trong mối quan hệ hợp tác với các quốc gia phương Tây nếu quốc gia này muốn tránh sự sụp đổ kinh tế và đương đầu với mối nguy hiểm của hoạt động khủng bố trong nước. Cả hai chính phủ đều nhận thức được rằng họ phải cố gắng tập trung giải quyết các vấn đề kinh tế do chính quyền cũ để lại và theo đuổi một chính sách đối ngoại không được bỏ qua các nhà tài trợ nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài và ngành thương mại du lịch vốn có vai trò quan trọng đối với cả hai quốc gia.
Tại Libya, chính quyền Gaddafi có thể bị lật đổ là sự phát triển rất có lợi đối với Mỹ, châu Âu và hầu hết các quốc gia Arab, nhưng vẫn cần chú ý tới những diễn biến sau đó nhằm tránh những sai lầm thời kỳ hậu cách mạng. Khi chính quyền Gaddafi bị lật đổ, bất cứ chính phủ kế nhiệm nào cũng sẽ tìm giải pháp dễ dàng và khôn ngoan nhằm duy trì quan hệ với phương Tây và các quốc gia Arab vùng Vịnh. Tuy nhiên, mối nguy hiểm vẫn tồn tại khi một lượng lớn những người cực đoan mang khuynh hướng bạo lực đã trốn khỏi hệ thống các nhà tù của Gaddafi hoặc  sống bất hợp pháp ngay tại thời điểm cuộc nổi dậy bắt đầu. Những người dân Libya có ít kinh nghiệm với dân chủ, và sự ra đi của Gaddafi có thể không dẫn tới việc hình thành một chính phủ dân chủ. Trong trường hợp đó, Mỹ sẽ ủng hộ vai trò của Liên hợp quốc, châu Âu và Liên đoàn Arab trong việc tái xây dựng Libya, nhưng Mỹ sẽ không nhúng tay quá sâu trong việc định hình tương lai của Libya. Các nhà lãnh đạo Mỹ sẽ xem xét một cách thận trọng bất cứ yêu cầu nào của chính phủ mới thời kỳ hậu Gaddafi trong việc hỗ trợ chống khủng bố.
Mỹ đang đối mặt với nhiều vấn đề nhạy cảm tại Bahrain, đồng minh quan trọng của Mỹ, nhưng đồng minh này lại không thể kiểm soát được mối quan hệ giữa cộng đồng người Sunni và Shite. Sự có mặt của hải quân Mỹ tại Bahrain khiến Mỹ khó tránh khỏi bị can dự trong khủng hoảng, giới lãnh đạo Mỹ rõ ràng đã lo lắng về mối quan hệ phân cực quá sâu giữa người Sunni và người Shite tại quốc gia này. Thái độ khoan dung của Mỹ đối với sự đàn áp của chính phủ Bahrain có thể vì thế sẽ làm mất lòng cộng đồng người Shite ở ngoài Bahrain và sẽ khiến cộng đồng người Shite tại Bahrain trở nên quá khích, thậm chí sẽ khiến nhiều người trong số họ coi Iran như một vị cứu tinh tiềm năng. Trái lại, phá vỡ tất cả quan hệ của Mỹ với Bahrain, bao gồm cả quan hệ quân sự sẽ là một sự rút lui mang tính chiến lược đối với Mỹ và điều này rất có lợi cho Iran. Nói chung, tình hình tại Bahrain và đặc biệt là bạo động đã làm tổn hại lợi ích của Mỹ, cải thiện vị trí của Iran, nhưng tình trạng này có thể thay đổi được nếu Mỹ quan tâm tới những yêu cầu của người Shite tại Bahrain.
Những biến động quy mô lớn tại Syria sẽ không kết thúc nhanh chóng và dễ dàng vì mối quan tâm tập trung vào quyền lãnh đạo của người Alawite và đại đa số những người Hồi giáo dòng Sunni. Đa phần những người theo giáo phái Alawite luôn kiên định, trung thành với chính quyền, nhưng cộng đồng này chỉ chiếm 8-10% dân số, trong khi cộng đồng Hồi giáo dòng Sunni chiếm hơn 70% dân số và đang bất mãn sâu sắc với chính phủ đương nhiệm. Không có cơ sở chắc chắn nào để nhận định quốc gia này duy trì được sự thống nhất hay chia rẽ trong thời kỳ hậu xung đột. Người Alawite mong muốn thiết lập một nhà nước riêng (chẳng hạn như quanh Latikiya) trước khi đầu hàng các nhóm vũ trang người Sunni bởi một nhà nước như thế có thể duy trì được những lợi ích kinh tế. Lợi ích của Mỹ chắc chắn sẽ không bị tổn hại bởi sự ra đi của chính quyền Syria, và việc thiết lập một đất nước Syria dân chủ sẽ là đồng minh quan trọng trong tiến trình hòa bình giữa Arab – Israel và cuộc đấu tranh chống khủng bố. Tuy nhiên, sự sụp đổ của chính quyền Assad vẫn là điều chưa chắc chắn.
Yemen hiện đang chìm sâu trong các cuộc nổi dậy của dân chúng, đôi lúc quốc gia này có nguy cơ đứng bên bờ vực của nội chiến. Từ tháng 2 năm 2011, chính phủ Yemen đã không thành công trong việc xử lý hay dập tắt những cuộc bạo động chính trị, nhưng nhiều nhà lãnh đạo chính trị và quân đội tiếp tục rời bỏ theo phe đối lập. Hơn nữa, Yemen là quốc gia cần sự giúp đỡ từ những nước láng giềng giàu có hơn và cộng đồng quốc tế nếu quốc gia này muốn tồn tại như một thực thể chính trị thống nhất và thậm chí có thể tránh được nạn đói trên diện rộng. Với nhu cầu cần rất nhiều viện trợ nước ngoài, không chính phủ nào của Yemen lại theo đuổi đường lối cấp tiến một cách cảm hứng để bỏ qua những nguồn viện trợ tiềm năng. Nguy hiểm thực sự tại Yemen là quốc gia này có thể bị kiểm soát hay ảnh hưởng bởi những tổ chức khủng bố như Al-Qaeda tại bán đảo Arab (AQAP). Khả năng này cho thấy một nguy cơ lớn đối với những lợi ích của Mỹ, lợi ích mà cả chính phủ và phe đối lập đã hứa sẽ giải quyết, mặc dù không ai trong số họ tập trung vào điều đó vì hiện nay các cuộc tranh giành quyền lực vẫn diễn ra tại thủ đô Sana’a. 
Algeria trải qua những cuộc biểu tình lớn trong tháng 1 năm 2011 khi những người biểu tình yêu cầu phải giảm giá thực phẩm (giá thực phẩm đã tăng nhanh chóng trong những năm qua) và kêu gọi phải nỗ lực để giải quyết vấn đề thất nghiệp. Chính phủ đã phản ứng bằng cách ra lệnh giảm giá các mặt hàng thiết yếu bao gồm dầu ăn, đường và bột mỳ. Phản ứng này đã làm giảm sự chống đối, mặc dù những cuộc biểu tình nhỏ hơn vẫn tiếp tục trong năm 2011. Chính quyền Algeria không bị đe dọa vào thời điểm này, và Algeria thành công hơn rất nhiều so với Tunisia trong việc triệt tiêu, phá vỡ và kiềm chế những cố gắng của phe đối lập nhằm tổ chức các cuộc biểu tình lớn hơn. Dân chúng Algeria cũng đặc biệt nhận thức được những nguy hiểm của nội chiến kéo dài. Vì điều đó, không có người Algeria nào cho rằng thay đổi chính quyền là việc dễ dàng. Những vấn đề cơ bản đang diễn ra tại Algeria hiện nay trùng hợp với cuộc nổi dậy tại Tunisia nhưng đất nước này đã rút ra nhiều kinh nghiệm từ cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài hơn một thập kỷ qua. Lợi ích của Mỹ tại Algeria sẽ không bị những người biểu tình cũng như chính phủ nước này đe dọa.
Jordan đôi lúc được đánh giá là sắp nổ ra cuộc cách mạng, nhưng những quan ngại này đã bị thổi phồng. Phần lớn dân chúng rất trung thành với chính quyền Hashemite, trong khi những người theo phe đối lập lại không thể đưa ra một phương án thay thế khả thi. Jordan là một trong những quốc gia nghèo tài nguyên nhất trong thế giới Arab, mặc dù quốc gia này có khả năng xây dựng cuộc sống tương đối ổn cho hầu hết người dân dựa vào các nguồn viện trợ từ nước ngoài. Người Palestine với tư cách công dân Jordan ít nhất chiếm đến một nửa dân số Jordan, và một Jordan dân chủ trong đó những người Palestine chiếm đa số liên tục bị đặt dưới áp lực phải từ bỏ hiệp ước hòa bình với Israel và bình thường hóa quan hệ với Phong trào kháng chiến Palestine (Hamas). Những chính sách đó chắc chắn sẽ làm cho Mỹ dừng viện trợ và có thể châu Âu cũng sẽ làm như vậy. Khi rất nhiều người Palestine-Jordan muốn có một chính phủ dân chủ thì họ cũng nhận thức được rằng những chính sách phục vụ quyền lợi của dân thường rất có thể sẽ hủy hoại đất nước họ trên phương diện kinh tế vì sự thiếu hụt nguồn viện trợ. Thêm vào đó, Jordan là một đồng minh hữu ích với Mỹ khi quốc gia này đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống lại Al-Qaeda. Bất cứ chính phủ nào kế nhiệm chính quyền  Hashemite có thể sẽ không thân thiện và mang tính thù địch với Mỹ bất chấp những hậu quả kinh tế trầm trọng có thể ảnh hưởng đến người dân Jordan. Vì thế Mỹ sẽ bị mất mát lợi ích nếu để chính quyền Hashemite bị lập đổ. Hơn thế, người Mỹ vẫn có thể tương đối hài lòng nếu nền dân chủ dân túy được thiết lập tại Jordan bởi vì sự sụp đổ của đất nước này sẽ đẩy dân chúng Jordan tới vực thẳm của sự nghèo đói, bất ổn định chính trị và như vậy Jordan sẽ tiếp tục mâu thuẫn căng thẳng với Israel.
Tại Morocco, một bản Hiến pháp mới đã được xây dựng, trong đó duy trì quyền lực của nhà vua nhưng chuyển giao một số quyền lực của nhà vua cho thủ tướng. Vua Mohammed vì thế có thể sẽ vượt qua được cuộc khủng hoảng chính trị hiện tại thông qua những điều chỉnh chính trị khôn ngoan. Bên cạnh đó, phe đối lập tại Morocco không bị chi phối bởi Hồi giáo và không coi những chính sách đối ngoại của Morocco là một phần quan trọng trong sự bất mãn của họ. Mỹ đã duy trì một mối quan hệ có lợi với Morocco qua nhiều thập kỷ và sẽ tiếp tục duy trì phương thức cũ khi quan hệ với vua và chính phủ mới vì một tương lai có thể dự đoán trước. Hiện nay, Mỹ dường như không quá lo lắng về phe đối lập không quá khích và phân tán ở Morocco. Kết cục tốt nhất sẽ là việc nhà vua tiếp tục thực hiện cải cách, chống tham nhũng, xây dựng một thể chế dân chủ hơn. Những nỗ lực cố gắng này sẽ ngăn chặn những cuộc nổi dậy trong tương lai nếu như dân chúng không hài lòng với tiến bộ hiện tại.
Oman đã gặp nhiều vấn đề với các đoàn biểu tình trong Mùa xuân Arab, nhưng những khó khăn này đã được kiểm soát và sẽ không là mối đe dọa đối với chính quyền. Qua quá trình đấu tranh với chính phủ, những người biểu tình không yêu cầu sự ra đi của quốc vương Qaboos, nhưng họ đã đạt được thỏa thuận là buộc quốc vương phải thiết lập một cơ quan lập pháp đủ mạnh để có thể làm đối trọng với quyền lực chuyên chế. Đòi hỏi chính của họ tuy nhiên vẫn là kinh tế. Quốc vương Qaboos phản ứng nhanh chóng với cuộc nổi dậy trong tháng 2 bằng việc cách chức 12 bộ trưởng, tăng mức lương tối thiểu, và hứa sẽ tạo ra 50.000 việc làm mới. Những cố gắng này đã giúp ổn định tình hình. Hiện tại, chính phủ Oman không gặp phải nguy cơ bị lật đổ và những người chống đối cũng không quan tâm đến quan hệ giữa Oman với Mỹ. Không có lợi ích nào của Mỹ bị đe dọa tại thời điểm này.
Kuwait hiện đang gặp phải tình trạng rối ren chính trị trong nghị viện khi nghị viện của họ bị bôi xấu bởi cuộc xâm chiếm Barhrain do người Saudi cầm đầu cũng như việc người dân đứng lên yêu cầu chính phủ phải giải quyết các vấn đề liên quan đến tham nhũng. Kuwait là quốc gia giàu có và không vấp phải những vấn đề liên quan đên đói nghèo như tại Tunisia hay Ai Cập, người dân Kuwait cũng không tham gia vào những cuộc nổi dậy hàng loạt. Các biện pháp khuyến khích kinh tế vốn được coi là nguyên tắc sống còn của hệ thống chính trị đã không được trao cho nhóm người tham gia biểu tình, khiến họ cảm thấy họ bị gạt ra khỏi những lợi ích kinh tế và những sự ràng buộc kinh tế của đất nước. Vấn đề nội tại lớn nhất của quốc gia này là chủ nghĩa bè phái giữa người Sunni và người Shite, mặc dù tham nhũng cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến người dân không hài lòng. Những vấn đề này vẫn có thể kiểm soát được tại thời điểm hiện tại. Hơn nữa, kinh tế Kuwait không phụ thuộc vào phương Tây, nhưng vẫn có lý do để Kuwait thắt chặt quan hệ với Mỹ và những đồng minh khác. Hầu hết người dân, bao gồm cả những người ít hài lòng nhất với chính phủ tiếp tục lo ngại về sự kiện Iraq ngay cả khi Saddam Hussein đã bị lật đổ. Cũng vậy, nhiều người đặc biệt quan tâm đến chính sách của Iran đối với đất nước của họ. Việc khám phá ra một ổ gián điệp của Iran tại đây đã kéo hồi chuông báo động ở Kuwait, và một số người cũng thể hiện quan ngại về những phần tử ẩn danh của Iran mà từ đó Tehran có thể kích hoạt trong một cuộc khủng hoảng.
Lebanon gần đây cũng gặp phải tình trạng rối ren chính trị và một cuộc nội chiến lần thứ hai không phải là không thể, mặc dù những diễn tiến này là kết quả của sự  khác biệt chính trị và sự can thiệp không ngừng của Syria tại Lebanon hơn là một sự phản ứng theo Mùa xuân Arab. Chính phủ do Hezbollah lãnh đạo ở Lebanon đã yêu cầu Quốc hội Mỹ ngay lập tức chấm dứt viện trợ quân sự cho quốc gia này. Hành động cảm tính này là rất dễ hiểu, và áp lực thực hiện chính sách như thế là tất yếu bởi Mỹ phản đối chủ nghĩa khủng bố Hezbollah. Vì chính phủ Lebanon rất không ổn định, có thể Mỹ sẽ tiếp tục giữ quan hệ với quân đội Lebanon ở mức độ nhất định, nhưng nhìn chung sự dính líu của Mỹ ở Lebanon sẽ là rất nhỏ.
Dù là quốc gia ít khi thu hút được sự chú ý của dư luận quốc tế, Mauritania cũng bị ảnh hưởng bởi Mùa xuân Arab. Một nhóm đối lập có tên là “Phong trào 25 tháng 3” được thành lập lấy cảm hứng từ Tunisia và Ai Cập và đã cố gắng tổ chức các cuộc biểu tình giống như các cuộc biểu tình đang thách thức hệ thống chính trị tại Ai Cập và Tunisia. Phong trào này đã tổ chức các cuộc biểu tình và phản đối từ tháng 1 năm 2011, yêu cầu phải có cải cách chính trị và cải cách xã hội, đặc biệt trong vấn đề quyền lợi của người nghèo. Ở Mauritani, giống như ở các quốc gia khác, chính quyền đã đáp lại bằng việc phối hợp hứa hẹn cải cách với trấn áp. Thủ tướng đã hứa sẽ thực hiện cải cách hàng loạt, nhưng cảnh sát quốc gia nước này vẫn sử dụng dùi cui và hơi cay để giải tán các cuộc biểu tình. Phe đối lập không yêu cầu chính phủ  thay đổi chính sách đối ngoại nhưng yêu cầu chính phủ mới phải tìm kiếm sự trợ giúp từ bên ngoài để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và khai thác các nguồn tài nguyên có sẵn. Mỹ chắc chắn sẽ làm việc với một chính phủ Mauritani tập trung vào các vấn đề cải cách và sẽ giúp đỡ họ kiềm chế các hoạt động mạnh mẽ của Al-Qaeda trong Nhóm Hồi giáo Maghreb (AQIM). Tuy nhiên, vẫn chưa có gì chắc chắn về sự thành lập của một chính phủ như thế. 
Tại thời điểm này, những người thuộc phe đối lập Saudi còn quá ít và không có tổ chức, do vậy chưa thực sự là mối nguy hiểm đối với chế độ quân chủ. Hơn thế, giới lãnh đạo Saudi đã chi những khoản tiền lớn để cải thiện phúc lợi cho người dân của họ với hy vọng đảm bảo cho nhân dân những lợi ích kinh tế để họ ủng hộ chính phủ, tuy nhiên về mặt chính trị, giới cầm quyền không có bất kỳ sự khoan nhượng nào. Những người theo phe đối lập Saudi nên giành một chỗ đứng quan trọng để yêu cầu cải cách Saudi Arabia hoặc là thay thế gia đình hoàng gia Saudi bằng một kiểu chính phủ khác; họ có thể đổ lỗi cho Mỹ vì đã hỗ trợ duy trì sự cai trị của chế độ quân chủ trong nhiều năm. Những gánh nặng như thế là có thật, cho dù phe đối lập đã hướng về mô hình cải cách của phương Tây và có thể sẽ tiếp tục ủng hộ quan hệ thân thiện với Mỹ. Bất cứ thay đổi nào tại Saudi Arabia đều khiến Mỹ phải quan tâm đặc biệt. Hơn thế, nếu những người cấp tiến nắm được quyền kiểm soát Saudi Arabia trong trường hợp lực lượng tham gia Mùa xuân Arab lại nổi dậy, nhưng nếu  sau đó họ lại bị đẩy ra ngoài rìa thì điều này sẽ là một vấn đề lớn đối với Mỹ. Những cá nhân này có thể dễ dàng từ chối Mỹ mà không quan tâm những hậu quả kinh tế của những hành động như thế.
Bất cứ chính sách nào Mỹ áp dụng đối với các quốc gia thuộc nhóm Mùa xuân Arab đều là sự mạo hiểm bởi tương lai không chắc chắn của họ. Tình thế này yêu cầu một số các quốc gia (bao gồm Ai Cập, Tunisia, và có thể là Yemen và Libya dưới những chính quyền mới) được đối xử như những đồng minh khi họ đang trong quá trình chuyển đổi, miễn là họ có một cơ hội thích hợp để xây dựng được một chính phủ cải cách. Các nhà lãnh đạo bản địa sẽ có những liên hệ đồng minh với Mỹ như một tuyên bố tiến tới nền dân chủ. Dưới những điều kiện đó, các chương trình như Chương trình đám phán của Bộ tham mưu quân sự Mỹ (US.Army Staff Talks Program), những cuộc thảo luận song phương về các vấn đề chiến lược với các quốc gia đối tác nên được tiếp tục thực hiện nếu không các quốc gia này sẽ không còn là những đồng minh tin cậy lâu dài. Sự tham gia của các lãnh đạo cấp cao trong các cuộc hội nghị khu vực vẫn là một việc làm hiệu quả khi đối tượng thảo luận vẫn là những vấn đề tương tự đã tồn tại trước khi có Mùa xuân Arab. Cũng có một số vấn đề khó xử nhạy cảm phải được xem xét. Các tướng lĩnh quân đội Mỹ sẽ phải quan tâm tới việc tham gia các cuộc diễn đàn đa phương nơi xuất hiện các đại diện của các phong trào chống đối mà Mỹ không công nhận.
Các tướng lĩnh quân đội Mỹ cũng nên tiếp tục có mối liên lạc với các tùy viên từ Tunisia và Ai Cập, cũng như từ các quốc gia đồng minh khác bao gồm cả Bahrain. Quan hệ tiếp xúc với Syria sẽ phải được giảm thiểu đến mức tối đa, đó không phải là một chính sách khó khăn để áp dụng vì chính phủ Syria đã tài trợ cho một nhóm vũ trang tấn công Sứ quán Mỹ. Việc Mỹ quyết định công nhận Hội đồng dân tộc lâm thời (TNC) và sự sụp đổ được dự đoán trước của chính quyền Gaddafi đều sẽ là hữu ích cho những người đứng đầu quân đội Mỹ khi tham dự các cuộc thương thuyết hiện nay với chính phủ Libya mới về những vấn đề chiến lược. Mỹ không quan hệ nhiều với Libya trong 41 năm qua và bất cứ nỗ lực nào để hiểu được những lo lắng của một chính phủ mới sẽ có giá trị và thậm chí có thể được đánh giá cao bởi những người đứng đầu quân đội Lybia.
Trong hoàn cảnh như vậy, Mỹ sẽ cần phải duy trì Chương trình Giáo dục và huấn luyện quân sự quốc tế (IMET) đối với Ai Cập và Tunisia và tiếp tục những hình thức hỗ trợ quân sự khác. IMET không nên được xem xét như là lựa chọn tối ưu đối với các phong trào nổi dậy cho đến khi Mỹ chính thức công nhận những chính phủ mới thuộc phe đối lập được thành lập (ngay cả khi đang nội chiến). Nếu giới lãnh đạo Mỹ có tham vọng công nhận những chính phủ đó như đã lên kế hoạch với Libya, không có lý do gì để ngăn cản các chính phủ đó tham gia vào chương trình IMET vì xung đột vẫn đang diễn ra. Mỹ cũng có thể cung cấp vũ khí cho phiến quân tại Libya sau khi công nhận chính thức TNC, mặc dù điều này có thể không cần thiết. Pháp và Qatar hiện đang cung cấp vũ khí và các chuyên gia huấn luyện cho phiến quân Libya, những người họ công nhận như một chính phủ hợp pháp, còn vai trò của Mỹ trong những nỗ lực như thế là không lớn; điều đó chắc chắn sẽ không được ưa chuộng tại Libya. Vũ khí và các khóa huấn luyện cho phiến quân Syria tại thời điểm này sẽ là một sai lầm nghiêm trọng, sẽ tạo thuận lợi cho chính phủ Damascus có cách bào chữa khi xóa bỏ tất cả những cản trở trong việc thảm sát người dân mà cán cân quân sự vẫn không nghiêng về phía những người biểu tình. Mỹ nên tiếp tục tham gia vào các cuộc tập trận đa quốc gia bao gồm Ai Cập và Tunisia cũng như những đồng minh khác của Mỹ tại khu vực.
Jordan có thể được đánh giá là một đồng minh hữu ích giúp Mỹ phản ứng với Mùa xuân Arab. Hỗ trợ quân sự cho Jordan nên được duy trì miễn là chính phủ nước này không quá lạm dụng nhân quyền để chống lại những người biểu tình. Jordan là một trong những đồng minh quan trọng nhất của Mỹ tại khu vực, và sự ổn định của đất nước này là rất quan trọng đối với những lợi ích của Mỹ tại Trung Đông. Hủy bỏ tập trận hay huấn luyện hoặc không đồng ý với tiến trình cải cách sẽ là một sai lầm khủng khiếp. Trong trường hợp của Jordan, sẽ là khôn ngoan khi mở rộng hợp tác quân sự, để những thiết bị của Jordan có thể được sử dụng vào việc huấn luyện quân đội chuyên nghiệp hóa và chống khủng bố phục vụ cho các chính phủ mới. Mở rộng hợp tác Mỹ - Jordan trong việc lập kế hoạch an ninh quốc gia, kế hoạch đột xuất và phát triển học thuyết là một cách cực kỳ hữu hiệu để tiến về phía trước. Trung tâm huấn  luyện hoạt động đặc biệt của vua Abdullah II (KASOTC) là hết sức quan trọng. Trung tâm này của Jordan được xây dựng bằng vốn của Mỹ, có thể cung cấp những khóa huấn luyện đặc biệt cho quân đội Libya thời kỳ hậu Gaddafi. Nó cũng rất giá trị trong việc giúp quân đội Yemen sau khi chấn động tại quốc gia này chấm dứt. Trên khía cạnh này, quân đội Yemen có thể phải xây dựng lại để đối phó với nguy cơ khủng bố. Cung cấp vốn để tăng cường hoạt động tại KASOTC sẽ là chi tiêu đúng đắn của Mỹ. Các đội huấn luyện di động được gửi tới KASOTC để làm việc với những người huấn luyện sẽ cũng là một bước tiến đáng ghi nhận.
Cũng có những vấn đề đặc biệt liên quan đến chủ nghĩa khủng bố. Như đã nói ở trên, xung đột trong lòng Yemen đang tạo cơ hội cho những tổ chức khủng bố và đặc biệt là AQAP. Mỹ đã nhận được những đảm bảo rằng cả chính phủ lâm thời Yemen và lực lượng chống đối Mùa xuân Arab sẽ sẵng sàng kết hợp với Washington để chống lại khủng bố, nhưng không ai tại Yemen xem đây là ưu tiên hàng đầu. Bất cứ can thiệp quân sự nào của Mỹ tại Yemen bằng bộ binh sẽ là thảm họa vì người dân Yemen rất không thiện cảm với sự có mặt của lực lượng quân sự Mỹ và gần như mỗi người Yemen có thể làm để chống lại sự có mặt của quân đội Mỹ, không quan tâm tới lý do tại sao. Tuy nhiên, Mỹ có thể đạt được sự cho phép không công khai từ cả phía chính phủ lẫn những lực lượng chống đối để tiếp tục các cuộc không kích, bao gồm cả những cuộc không kích bằng máy bay không người lái chống lại AQAP. Phe đối lập tại Yemen cần phải biết rằng những quan hệ trong tương lai với Mỹ phụ thuộc vào sự hợp tác của họ trong việc chống lại khủng bố. Cũng như vậy, cả Arab Saudi và Jordan có thể đóng vai trò quân sự quan trọng trong việc hỗ trợ chống khủng bố, thậm chí nếu họ phải hợp tác với những chỉ huy địa phương và những thủ lĩnh của các bộ lạc để làm điều đó. Amman và Riyadh căm thù Al-Qaeda và những tổ chức nhánh của nó hơn phần lớn người Mỹ. Những nỗ lực của họ sẽ là rất cần thiết.
W. Andrew Terrill
Trần Anh Đức lược dịch