MỤC LỤC:
Chương 7: Sự ra đời của chính sách khủng bố
Võ Văn Lượng dịch từ nguyên văn: The Crisis of Islam" của Bernard Lewis , Random House , New York 2004
Dẫn nhập
Võ Văn Lượng dịch từ nguyên văn: The Crisis of Islam" của Bernard Lewis , Random House , New York 2004
Dẫn nhập
Tổng thống Bush và các chính khách phương Tây đã khá chật vật để chỉ ra rằng cuộc chiến mà nước Mỹ đang tham gia là cuôc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố - chứ không phải là chống người À rập , hoặc nói rộng hơn là chống lại người Hồi giáo , là những người được khuyến khích cùng chung sức với chúng ta trong cuộc chiến chống kẻ thù chung . Nhưng thông điệp của Usama bin Ladin thì khác hẳn . Đối với bin Ladin và những người theo ông ta đây là 1 cuộc chiến tôn giáo , 1 cuộc chiến của người Hồi giáo chống lại những kẻ vô đạo , và vì thế đương nhiên là chống lại nước Mỹ , cuờng quốc lớn nhất trong thế giới của những kẻ vô đạo .
Trong các tuyên bố của mình , bin Ladin luôn luôn dẫn chứng lịch sử . Một trong những dẫn chứng gây ấn tượng nhất được nêu trong cuốn băng video ngày 7/10/2001 , về"sự ô nhục và tủi hổ"mà đạo Hồi đã phải gánh chịu trên 80 năm qua". Đối với bối cảnh Trung đông , đa số các nhà quan sát người Mỹ - và đương nhiên , có người Âu - bối rối bắt đầu tìm hiểu cái gì đã xảy ra"trong hơn 80 năm trước" và cuối cùng đưa ra nhiều câu trả lời khác nhau . Chúng ta có thể tin phần nào là những đối tượng của bin Ladin hiểu rõ ngay ý nghĩa những lời nói bóng gió này .
Turkey= Turquie= Thổ
Vào năm 1918 , đế quốc Ottoman , là đế quốc cuối cùng của các đế quốc Hồi giáo hùng mạnh bị đánh bại - thủ đô Constantinople bị chiếm đóng , quốc vương bị bắt giữ và phần lớn lãnh thổ bị các đế quốc thắng trận (Anh và Pháp ) xâu xé . Các tỉnh nói tiếng A-rập thuộc đế quốc Ottoman trước kia ở vùng Lưỡi liềm phì nhiêu bị phân chia ra thành các thực thể mới , với tên gọi và biên giới mới . 2 trong số những tỉnh này , Iraq và Palestine, được đặt dưới quyền ủy trị của Anh , còn tỉnh thứ 3 , Syria , thì giao cho Pháp . Sau này , nước Pháp lại chia nhỏ Syria ra làm 2 phần , một phần gọi là Liban , còn phần kia vẫn giữ tên Syria . Ngưòi Anh cũng chia Palestine ra làm 2 vùng nằm vắt 2 bên bờ sông Jordan ; bờ tây thì vẫn giữ lại tên Palestine , còn phần bên kia mang tên Cisjordan .
Bán đảo Ả -rập, chủ yếu toàn núí và các vùng sa mạc khô cằn và hiểm trở , lúc đó được coi như chẳng bỏ công chiếm đóng , cho nên được phép giữ lại nền độc lập bấp bênh và chẳng nhiều nhặn gì . Người Thổ (Turkey, cuối cùng cũng giải phóng được quê hương của họ tại cao nguyên Anatolia , không phải bằng ảnh hưởng Hồi giáo mà do phong trào quốc gia thế tục do Mustafa Kemal , một tướng lãnh Ottoman được biết nhiều hơn dướí tên Kemal Ataturk . Ngay cả khi viên tướng này chiến đấu thành công để giải phóng Thổ nhỉ kỳ khỏi sự thống trị của phương Tây , ông ta cũng bước đầu chấp nhận các đường lối Tây phương , hoặc theo đường lối cách tân của ông ta . Một trong những đạo luật đầu tiên ông ban hành vào tháng 11/1922 , là bãi bỏ nhà nước sultan .
Quốc vương Ottaman không những chỉ là 1 sultan , người cai trị của 1 đất nưóc cụ thể , mà còn được rộng rãi thừa nhận là Caliph , tức là người đứng đầu của tất cả người Hồi giáo Sunni , và là người cuối cùng của 1 dòng dõi quân vương được hình thành sau khi Tiên tri Muhammad chết vào năm 632 CN , và việc bổ nhiệm người kế vị Ngài , không những chỉ là người đứng đầu về tinh thần mà còn là người đứng đầu về tôn giáo và chính trị của 1 nhà nước và của cộng đồng Hồi giáo . Sau 1 thời gian ngắn thực hiện việc chế độ Caliph tách biệt với nhà nước, cuối cùng vào tháng 3/1924 người Thổ bãi bỏ hẳn chế độ Caliph .
Trong suốt 13 thế kỳ , chế độ Caliph đã trải qua nhiều thăng trầm , nhưng nó vẫn còn là 1 biểu tượng mạnh mẽ cho sự thống nhất , thậm chí là 1 bản sắc Hồi giáo ; tòan thể thế giới Hồi giáo cảm nhận sự biến mất của nó dưới 2 mặt tấn công của đế quốc ngọai bang cùng với những kẻ cách tân trong nước . Nhiều quốc vương và lãnh đạo Hồi giáo có đưa ra một số cố gắng cầm chừng để dành cái tước hiệu bỏ trống đó , nhưng chẳng đựơc ủng hộ bao nhiêu . Nhiều người Hồi giáo vẫn còn trăn trở về sự thiếu vắng này , và có người cho rằng chính Usama bin Ladin - đã - hoặc đang – có ước vọng muốn dành chức Caliph.
Danh từ Caliph đi từ tiếng Ả -rập khalifa , có ý nghĩa vừa là"người thừa kế" và "người phụ tá". Lúc đầu , người đứng đầu cộng đồng Hồi giáo là "khalifa của đấng tiên tri của Thượng đế". Một số người có nhiều tham vọng hơn , đã rút ngắn tên gọi thành"Khalifa của Thượng đế". Luận điệu đòi uy quyền tinh thần này đã bị chỉ trích nhiều và dần dần bị bỏ đi , và các nhà lãnh đạo Hồi giáo lại sử dụng rộng rãi một danh xưng tuy vẫn như cũ nhưng ý nghĩa có phần nhẹ hơn là"Cái bóng của Thượng đế trên mặt đất". Trong phần lớn lịch sử của định chế này , những người nắm quyền Caliph thỏa mãn với 1 danh xưng khiêm tốn hơn , Almir al-Mu’mmin , thương được dịch là Đấng Thống lãnh của các tín đồ"
Những ẩn dụ lịch sử do bin Ladin nêu ra , có thể là khó hiểu đối với nhiều người Mỹ , lại khá phổ biến đối với người Hồi giáo , và chỉ có thể hiểu đúng trong khuôn khổ các nhận thức về bản sắc ( identity ) của vùng Trung đông , và đặt trong khung cảnh lịch sử của vùng Trung đông . Ngay cả cái quan niệm về lịch sử và bản sắc cũng cần phải được định nghĩa lại để cho người phương tây muốn hiểu rõ vùng Trung đông hiện tại . Theo kiểu nói tiếng Mỹ hiện nay , thì câu" đó là lịch sử" được sử dụng rộng rãi để gạt bỏ những cái gì không quan trọng , không liên quan đến những điều quan tâm hiện tại , và nhưng trong tình hình hiện nay , mặc dù việc dạy sử và viết sử đã được đầu tư khá nhiều , nhưng mức kiến thức chung về lịch sử của xã hội Mỹ phải nói là cực kỳ thấp .Trong khi đó , các dân tộc Hồi giáo , cũng giống như mọi người khác trên thế giới , đều được lịch sử nhào nặn , nhưng không như những người khác , họ lại có ý thức sắc sảo về lịch sử . Tuy nhiên , ý thức của họ bắt nguồn từ lúc đạo Hồi mới khởi phát , có lẽ có chút ít liên quan đến các thời kỳ trước Hồi giáo , cần thiết để giải thích những ẩn dụ lịch sử trong kinh Qu’ran và trong các truyền thuyết và biên niên Hồi giáo sơ kỳ . Đối với người Hồi giáo , thì lịch sử Hồi giáo có ý nghĩa quan trọng về mặt tôn gíao và về luật pháp nữa , bởi vì nó phản ánh ý đồ của Thượng đế cho cọng đồng của Người - là những ai chấp nhận lời giáo huấn Hồi giáo và tuân thủ các luật lệ của đạo này . Lịch sử của các nước và các dân tộc không phải - Hồi giáo không có nội dung này và vì thế đối với người Hồi giáo , không hề có chút giá trị hoặc điều gì đáng chú ý gì cả . Ngay cả đến các quốc gia có những nền văn minh cổ đại giống như thế tại vùng Trung đông , sự hiểu biết về lịch sử của kẻ khác đạo ( pagan history ) - về tổ tiên của họ những người đã lưu truyền đền đài và chữ viết khắp nơi – cũng chỉ là phần rất nhỏ .Các ngôn ngữ và chữ viết cổ đại đều bị quên lãng , các tài liệu cổ xưa bị chôn vùi cho tới khi chúng được các nhà khảo cổ và ngữ học phương tây có óc tìm tòi phát hiện và giải mã gần đây . Nhưng từ khi Hồi giáo xuất hiện , các dân tộc Hồi giáo đã hình thành 1 nền văn chuơng lịch sử phong phú và dồi dào - thật vậy , tại nhiều nơi , ngay cả tại các quốc gia có nền văn minh cổ đại như Ấn độ , thì những trang lịch sử nghiêm túc chỉ ra đời sau khi đạo Hồi du nhập .
Nhưng lịch sử về cái gì ?. Trong thế giới phương Tây , đơn vị cơ bản của 1 tổ chức con người là quốc gia ( nation ) , mà theo thông lệ ở Mỹ chứ không phải theo châu Âu , thì hầu như đồng nghĩa với 1 đất nước ( country ). Quốc gia sau đó được chia nhỏ ra theo nhiều kiểu , trong đó có kiểu chia nhỏ theo tôn giáo . Tuy nhiên , theo tín đồ Hồi giáo , lại cho rằng không phải từ 1 quốc gia chia nhỏ ra theo từng nhóm tôn giáo mà chính là 1 tôn giáo chia nhỏ ra thành nhiều quốc gia . Điều này hiển nhiên một phần là do phần lớn các quốc gia-nhà nước ( nation-states) hình thành tại miền trung đông hiện nay là những nước được thành lập tương đối mới , dư vị của thời đại thống trị đế quốc Anh -Mỹ tiếp sau sự thất bại của đế quốc Ottoman , và những quốc gia-nhà nước này vẫn duy trì cái khung nhà nước ( state-building ) và đường biên giới do những ông chủ đế quốc cũ vạch ra . Ngay cả tên gọi cũng phản ánh tính giả tạo này : Iraq là 1 tỉnh thời trung cổ với biên giới khác rất nhiều so với biên giới của nước cộng hòa hiện nay ( bỏ đi vùng Lưỡng hà ở phía bắc và lấy thêm 1 mảnh đất nhỏ của miền tây Iran ) ; tên các nước Syria , Palestine và Lybia có từ cổ đại nhưng lại không đựơc sử dụng tại vùng này trong 1 ngàn năm hay nhiều hơn nữa trước khi được đế quốc châu Âu vào thế kỷ 20 phục hồi và gán cho những đường biên giới mới và thường là khác hẳn , Algeria và Tunisia thậm chí chưa hề có trong ngôn ngữ Arập – cùng 1 từ để chỉ 1 thành phố và 1 đất nước . Điều đáng chú ý nhất là trong ngôn ngữ Ả -rập không có từ để chỉ Arabia và đất nước Saudia Arabia được gọi là "vương quốc Arập Saudi "hoặc " bán đảo của người Arập” tùy theo tình huống . Thực ra không phải do tiếng Ả -rập là 1 ngôn ngữ nghèo nàn - mà ngược lại mới đúng – nhưng bởi vì người Arập không hề nghĩ đến việc kết hợp giữa bản sắc dân tộc và lãnh thổ . Thật vậy , trích lời Caliph ‘Umar nói với người Ả -rập ”Hãy nghiên cứu dòng dõi của mình , và đừng có giống như mấy kẻ nông phu khi được hỏi đến nguồn gốc thì lại trả lời Tôi là người từ nơi này nơi nọ".
Vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Hồi giáo , cộng đồng Hồi giáo là 1 đất nước dưới quyền cai trị của 1 người . Ngay cả khi cộng đồng này tách ra làm nhiều nước , thì lý tưởng 1 thể chế nhà nước duy nhất vẫn tồn tại . Các nhà nước hầu như chỉ có tính triều đại , với biên giới có dịch chuyển , và nắm chắc một điều là , trong việc ghi chép lịch sử cực kỳ phong phú của thế giới Hồi giáo bằng tiếng Ả -rập , Ba tư , Thổ nhĩ kỳ , lịch sử của các triều đại , các thành phố chủ yếu chỉ là lịch sử của nhà nước và cộng đồng Hồi giáo chứ không hề là lịch sử của nước Ba tư hay Thổ nhĩ kỳ . Những tên gọi này , không giống như Syria hoặc Palestine hoặc Iraq , dành cho những thực thể chính trị cũ hòan tòan đã có độc lập chủ quyền nhiều thế kỷ chứ không phải là quốc gia mới thành lập . Nhưng mãi cho tới thời hiện đại , những tên gọi này không hề có trong tiếng Arập , Ba tư hay Thổ .
Cái tên Thổ nhĩ kỳ , để chỉ 1 quốc gia có người Thổ sinh sống và nói 1 ngôn ngữ là tiếng Thổ , dường như phù hợp với kiểu thức châu Âu bình thường khi gọi tên 1 đất nước theo tên sắc dân . Nhưng cái tên này , thông dụng tại châu Âu từ thời trung cổ , chỉ mới được chấp nhận tại Thổ nhĩ kỳ khi tuyên cáo thành lập nước cọng hòa vào năm 1923 .
Ba tư ( Persia ) vốn có gốc châu Âu , đầu tiên là do người Hi lạp phỏng theo từ Pars , sau đó là Fars , là tên 1 tỉnh thuộc miền tây Iran. Sau khi bị người Ả -rập chinh phục , do tiếng Ả -rập không có chữ p nên mới trở thành Fars . Giống như tiếng Castillian trở thành tiếng Tây ban nha và tiếng Tuscan trở thành tiếng Ý , cho nên Fars , vốn là phương ngữ của Fars , trở thành ngôn nhữ chính thức của quốc gia , nhưng trong tiếng Ba tư , tên của 1 tỉnh không bao giờ được dùng chung cho cả 1 đất nước .
Cả người Ả -rập lẫn người Thổ đều sản sinh ra 1 nền văn học phong phú mô tả những cố gắng của họ chống lại châu Âu Cơ đốc , kể từ những đợt thâm nhập đầu tiên của người Ả -rập vào thế kỷ thứ 8 cho đến cuộc thoái trận cuối cùng của người Thổ vào thế kỷ 20 . Nhưng cho tới giai đọan cận đại , khi các khái niệm và phạm trù châu Âu trở nên nổi trội , thì các chiến binh , viên chức và sử gia Hồi giáo hầu như lúc nào cũng đề cập đến kẻ đối nghịch với mình không theo các thuật ngữ về quốc gia và lãnh thổ mà vỏn vẹn chỉ là những kẻ vô đạo ( infidels= kafir) , hoặc đôi khi bằng những từ mơ hồ như người Franks hoặc người Romans . Tương tự như thế , họ không bao giờ gọi những người thuộc phe mình là người Ả-rập, người Ba tư hoặc người Thổ ; họ chỉ xem mình là người Hồi giáo . Viễn cảnh này giúp ta hiểu được vì sao Pakistan quan tâm đến Taliban và những người kế tục của phe này tại Afghanistan . Cái tên Pakistan , là 1 sáng chế của thế kỷ 20 , để chỉ 1 đất nước được hình thành trên cơ sở tôn giáo và bổn phận đối với Hồi giáo . Còn về mặt khác , đất nước và con người Pakistan - như đã từng có hàng ngàn năm qua – là 1 phần của Ấn độ . Một nước Afghanistan có bản sắc Hồi giáo sẽ là 1 đồng minh tự nhiên , thậm chí là 1 chư hầu , của Pakistan. Một Afganistan dưới bản sắc chủng tộc , ngược lại , sẽ là 1 nước láng giềng nguy hiểm , sẽ nung nấu chủ trương đòi lại vùng đất nằm phía tây bắc Pakistan có nhóm người nói tiếng Pashto và có lẽ còn liên kết với Ấn độ nữa .
Việc tham khảo những tài liệu lịch sử sơ kỳ , thậm chí thời cổ đại là điều thường gặp trong các phát biểu trước công chúng . Lấy ví dụ , vào những năm 1980 , trong chiến tranh Iran- Iraq , cả 2 bên đều phát động những chiến dịch tuyên truyền rầm rộ thường xuyên nhắc tới các biến cố và nhân vật xa xưa ở thế kỷ thứ 7 , nhắc tới các trận đánh tại Qadisiyya ( 637 C.E.) và Karbala ( 689 C.E.). Trận Qadisiyya là do người Hồi giáo Ả -rập tấn công và đánh thắng quân đội của vua Ba tư , lúc đó chưa theo Hồi giáo và như thế , dưới mắt người Hồi giáo vẫn là kẻ vô đạo và tà giáo . Cả 2 bên đều cho mình là thắng trận - đối với Saddam Hussein , là người Ả -rập thắng người Ba tư , còn với Ayatollah Khomeini , là người Hồi giáo thắng kẻ không tín ngưỡng . Việc đề cập đến các trận đánh không được mô tả hoặc kể ra chi tiết , nhưng chỉ là những lời bóng gió ngắn gọn , không đầy đủ , mà cả 2 phe sử dụng để sao cho người nghe 2 bên chộp lấy , hiểu lấy , dù rằng phần lớn những người nghe của cả 2 phía đều mù chữ . Thật khó mà tưởng tượng rằng bộ máy tuyên truyền cho quần chúng ở châu Âu lại đưa ra những ẩn dụ có từ thời xa lắc xa lơ như thế , từ thời có chế độ thất hùng ( heptarchy ) cai trị tại nước Anh hoặc vua chúa dòng Carolingian tại Pháp . Cũng theo luận điệu ấy , Usama bin Ladin lăng mạ khi ví Tổng thống Bush với Pharaon , và tố cáo Phó Tổng thống Cheney và Bộ trưởng Powell là đã gây nhiều tang tóc cho Iraq trong chiến tranh vùng vịnh năm 1991 và những năm sau đó còn nhiều hơn so với thời các Hãn Mông cổ chinh phục Baghdag và phá nát vương triều Abbasid vào giữa thế kỷ 13 . Nhận thức về lịch sử của người dân Trung đông được nuôi dưỡng từ những lời giảng kinh sách , từ nhà trướng và từ các phương tiện truyền thông , và dù rằng những nhận thức này lắm khi thiên lệch và thiếu chính xác , nhưng lại đầy sinh động và gây cộng hưởng lớn .
Vào ngày 23/2/1998 , tờ báo tiếng Ả -rập Al-Quds al-‘Arabi, xuất bản tại Luân đôn , có in tòan văn "Tuyên bố của Mặt trận Hồi giáo thế giới kêu gọi thánh chiến chống lại bọn Do thái và Thập tự chinh". Theo như tờ báo cho biết , thì tuyên bố này đựơc gởi đến bằng fax , có chữ ký của Usama bin Ladin và các nhà lãnh đạo các nhóm thánh chiến ( Jihad) ở Ai cập, Pakistan và Bangladesh . Bảng tuyên bố bằng tiếng Ả -rập - với lời văn hùng hồn , có chỗ giống như thơ - đưa ra 1 lối giải thích lịch sử khác mà đa số người châu Âu chưa gặp bao giờ . Những bất bình của bin Ladin được nêu trong tuyên bố không hề gíống với những gì mà nhiều người mong đợi . Tuyên bố mở đầu bằng những đoạn văn trích dẫn sặc mùi hiếu chiến trong kinh Qur’an kèm theo những lời dạy của Tiên tri Muhammad , và tiếp đến là :” Kể từ khi Thượng đế dựng nên bán đảo Ả -rập , có sa mạc , có biển bao quanh , thì chưa hề có tai họa nào giáng xuống cho đến khi bọn Thập tự chinh ào đến như châu chấu , nhung nhúc trên mặt đất , ăn sạch hoa màu , phà hủy màu xanh ; và đây là lúc mà các nước chống lại người Hồi giáo như bọn đói ăn xâu xé dành nhau 1 bát cơm"
Từ điểm này tuyên bố kêu gọi cần phải hiểu rõ để chấn chỉnh tình hình . Theo tuyên bố này , các thực trạng mà ai cũng rõ được xếp theo 3 đề mục :
Một là – từ 7 năm qua , nước Mỹ đã xâm chiếm phần đất đai linh thiêng nhất của người Hồi giáo, đó là Arabia , đã tước đọat của cải khống chế các nhà cầm quyền lăng nhục nhân dân, uy hiếp các nước láng giềng và sử dụng những căn cứ trên bán đảo Ả -rập làm đầu cầu để chống lại nhân dân Hồi giáo các nước lân cận .
Mặc dù trong qúa khứ đã có nhiều tranh cãi về bản chất thực sự của sự chiếm đóng này , nhưng tòan thể nhân dân Arabia giờ đây đều đã biết rõ .
Bằng chứng hiển nhiên là nước Mỹ lấy Arabia làm căn cứ để tiếp tục xâm lược chống nhân dân Iraq , dù rằng các nhà lãnh đạo Arabia có phản đối nhưng đều bị khống chế để cho Mỹ sử dụng lãnh thổ của mình vào mục đích xâm lược .
Hai là - mặc dù liên minh Thập tự chinh- Do thái gây ra sự tàn phá to lớn cho người dân Iraq , và mặc dù con số người chết đã lên đến múc kinh hòang vượt quá 1 triệu người , bọn Mỹ tuy thế vẫn còn cố lập lại hành động đồ tể đáng kinh sợ đó . Dường như đối với chúng sau 1 cuộc chiến khốc liệt ,việc phong tỏa kéo dài , sự băm xé và hủy diệt vẫn còn chưa đủ . Bây giờ chúng lại tiến công để hủy diệt những gì còn sót lại của dân tộc này và để hạ nhục các nước Hồi giáo láng giềng .
Ba là – Trong khi bọn Mỹ nhắm vào các mục đích tôn giáo và kinh tế trong các cuộc chiến này , bọn chúng cũng đồng thời phục vụ cho miếng đất cỏn con của bọn Do thái , nhằm đánh lạc hướng việc chiếm đóng Jerusalem và giết chóc tín đồ Hồi giáo tại đó .
Không có bằng chứng nào rõ hơn về vấn đề này là ý muốn tiêu diệt nước Iraq của bọn chúng , là nước mạnh nhất trong các nước láng giềng Ả -rập , và ý đồ của chúng là băm nát tất cả các quốc gia trong vùng như Iraq và Saudi Arabia , Ai cập và Sudan thành các nước con con , để làm suy yếu các nước này , để cho nước Israël tồn tại và tiếp tục giúp cho bọn Thập tự chinh chiếm đóng và gây ra nhiều tai họa trên bán đảo Arabia.
Những tội ác này , bản tuyên bố tiếp tục , đã trở thành 1 lời "tuyên chiến rành rành của bọn Mỹ chống lại Thượng đế , chống lại Đấng tiên tri của người và tín đồ Hồi giáo . Về mặt này , ý kiến thống nhất của các bậc trí giả ( ulema ) qua bao thế kỷ là khi có kẻ thù tấn công đất đai của người Hồi giáo , thì thánh chiến là bổn phận của mỗi tín đồ .
Những người ra tuyên cáo trích dẫn nhiều căn cứ trong kinh sách Hồi giáo và sau đó đi đến phần chót và quan trọng nhất của tuyên bố , phần sắc lệnh ( fatwa ) , tóm gọn như sau" giết bọn Mỹ và đồng minh của chúng , dân sự và quân sự , là nhiệm vụ của mọi tín đồ Hồi giáo còn khỏe mạnh , ở mọi nơi mọi chốn , cho tới khi nào giải phòng đựơc đền Aqsa ( tại Jerusalem ) và đền Haram ( tại Mecca) ra khỏi ách kìm kẹp của chúng và cho tới khi quân đội của chúng bị đánh tơi tả và gảy cánh , rút lui khỏi mọi phần đất của người Hồi giáo , không còn đủ sức đe dọa bất cứ tín đồ nào"
Sau khi nêu thêm một vài đọan có liên quan trong kinh Qur’an , tài liệu viết tiếp :"Đựơc phép của Thượng đế , chúng tôi kêu gọi mọi tín đồ Hồi giáo những ai tin vào Thượng đế và mong đựơc tưởng thưởng vì vâng lời Thượng đế đi giết bọn Mỹ và tước đọat tài sản của chúng bất cứ khi nào nơi nào có thể làm đựơc . Vì thế chúng tôi kêu gọi mọi thầy cả ulema và các nhà lãnh đạo Hồi giáo , các thanh niên và chiến sĩ nhất tề tấn công chống lại quân đội của bọn quỉ Mỹ và chống lại những ai là đồng minh của chúng trong hàng ngũ của bọn tiếp tay cho quỉ Satan" Tuyên bố và sắc chỉ kết thúc bằng một số lời trích trong kinh sách Hồi giáo .
Theo nhận thức thông thường của phương tây , chiến tranh vùng vịnh năm 1991 , là do Mỹ , liên minh Ả -rập và các đồng minh khác phát động để giải phóng Kuwait khỏi sự xâm lược của Iraq và nhằm bảo vệ Saudi Arabia chống lại sự tiến công của Iraq. Cho rằng cuộc chiến này là 1 sự tiến công của Mỹ chống lại Iraq xem ra có vẻ hơi kỳ cục nhưng viễn cảnh này đựơc thế giới Hồi giáo chấp nhận rộng rãi . Khi vụ việc Saddam Hussein tấn công Kuwait đi vào quên lãng , thì người ta lại quan tâm đến việc Iraq bị cấm vận , máy bay của Anh và Mỹ từ các căn cứ ở Arabia tuần tra không phận Iraq , nỗi thống khổ của nhân dân Iraq và sự thiên vị của Mỹ đối với Israel được cảm nhận càng ngày càng tăng .
3 khu vực gây bất bình đựơc nêu trong tuyên bố - đó là Arabia , Iraq và Israel - tất cả đều quen thuộc đối với những ai quan sát tình hình vùng Trung đông . Cái có lẽ ít quen thuộc là trình tự và tầm quan trọng khi trình bày 3 khu vực này . Điều này sẽ không gây ngạc nhiên cho bất cứ ai thông thạo lịch sử và văn học Hồi giáo . Đối với người Hồi giáo , do chúng ta ở phương tây thường hay quên , đất thánh đúng nghĩa là ở Arabia và đặc biệt là Hijaz và 2 thành phố thánh – Mecca , nơi đấng Tiên tri chào đời , và Medina , nơi ngài thiết lập đất nước Hồi giáo đầu tiên ; đất nước mà dân chúng là người đầu tiên tập hợp quanh 1 đức tin mới và là những người tiên phong . Đấng tiên tri sống và tạ thế tại Arabia cũng như những người kế nhiệm trực tiếp , là các Caliph , những người đứng đầu của cộng đồng . Tiếp sau đó , trừ một thời gian ngắn ở Syria , trung tâm thế giới Hồi giáo và nơi đạt đựơc những thành tựu chính của Hồi giáo là Iraq , có thủ đô là Baghdad , là nơi các Caliph đóng đô trong nửa thiên niên kỷ . Đối với người Hồi giáo , không có mảnh đất nào một khi đã nhập vào cương vực Hồi giáo lại vuột ra được , không có nơi nào có thể sánh được với Arabia và Iraq .
Và trong 2 địa danh đó , Arabia có tầm quan trọng vượt xa hơn nhiều . Các sử gia Ả -rập kinh điển cho ta biết rằng vào năm 20 kỷ Hồi giáo , tương ứng với năm 641 CE. , Caliph ‘Umar ra sắc lệnh đuổi người Do thái và Cơ đốc ra khỏi các vùng biên phía nam và phía đông của Arabia , theo đúng huấn thị của Đấng tiên tri thốt ra khi lâm chung :” 2 đạo đó không được có mặt tại Arabia".
Dân tộc đang đề cập là những người Do thái tại ốc đảo Khaybar , ở phía bắc và người Cơ đốc Najran , ở phía nam. Cả hai đều là những cộng đồng đã có mặt ở đây từ xa xưa, tiếng nói , văn hóa và cách sống đều rặc Ả -rập , chỉ khác với người láng giềng ở phần đức tin .
Một số kinh sách Hồi giáo sơ kỳ đặt nghi vấn về việc gán ghép câu nói này cho Đấng tiên tri . Nhưng nó được nhiều người chấp nhận và thực hiện . Việc trục xuất các nhóm thiểu số tôn giáo là việc cực kỳ hiếm trong lịch sử Hồi giáo - không giống như đạo Cơ đốc thời trung cổ , việc trục xuất người Do thái , và sau thời kỳ Tái chinh phục , là người Hồi giáo , là việc bình thường và thường xuyên . So với việc trục xuất ở châu Âu , thì sắc lệnh của ‘Umar vừa có tính chừng mực và còn có chút trắc ẩn . Sắc lệnh này không bao gồm miền nam và đông nam bán đảo Arập , vốn không được coi là nằm trong vùng đất thánh Hồi giáo . Và không giống như người Do thái và tín đồ Hồi giáo khi bị đuổi khỏi đất Tây ban nha và những quốc gia châu Âu khác , hễ tìm đựơc chỗ nào trụ được thì cứ ở ; người Do thái và Cơ đốc tại bán đảo Ả -rập được tái định cư tại những vùng đất dành riêng cho họ , dân Do thái ở Syria và Palestine, dân Cơ đốc tại Iraq . Tiến trình này cũng khá chậm rãi , không hề gấp gáp , và có những tờ trình cho biết dân Do thái và Cơ đốc vẫn còn ở lại Khaybar và Najrab một thời gian sau khi sắc lệnh ban hành .
Việc trục xuất được tiến hành đúng hạn , và từ đó cho đến nay , đất thánh Hijaz là vùng đất cấm đối với dân không theo Hồi giáo . Theo trường phái giáo luật Hồi giáo đựơc nhà nước Ả -rập Saudi và Usama bin Ladin cùng phe đảng công nhận , thì ngay cả việc đặt chân lên đất thánh đối với người không theo Hồi giáo là 1 sự vi phạm nặng . Tại những nơi còn lại trong vương quốc , người không theo Hồi giáo , tuy được phép đến như du khách tạm thời , cũng không được phép thường trú hoặc thực hành tôn giáo của mình . Cảng Jedda trên bờ biển Đỏ từ lâu đựơc coi như là 1 vùng cô lập về mặt tôn giáo , tại đây các phái đoàn ngọai giao , lãnh sự và thương mãi chỉ được phép lưu trú ngắn hạn .
Từ 1930 trở đi , dầu mỏ được phát hiện và khai thác và tiếp đến là sự phát triển của Riyadh , thủ đô Saudi , từ 1 ốc đảo nhỏ trở thành 1 thủ phủ lớn , đã mang lại nhiều thay đổi , người nước ngoài ồ ạt tràn đến , chủ yếu là người Mỹ , đã tác động lên mọi mặt của cuộc sống tại vùng bán đảo này . Sự hiện diện của người nước ngoài , vẫn bị nhiều người coi như là 1 sự báng bổ thần thánh , góp phần giải thích thái độ bực tức ngày càng dâng cao ở đây.
Bán đảo Ả -rập chỉ bị Thập tự chinh đe dọa một thời gian ngắn vào thế kỷ thứ 12 . Sau khi Thập tự chinh bị thua trận và bỏ chạy , mối đe dọa về kẻ vô đạo được cảm nhận kế tiếp đối với Arabia bắt đầu vào thế kỷ thứ 18 khi quyền lực châu Âu được củng cố tại vùng nam Á và sự xuất hiện của các chiến thuyền châu Âu , đúng ra là của dân Cơ đốc , ở ngoài khơi các bờ biển Ả -rập. Cái ý thức bị lăng nhục ít nhất cũng là 1 trong những yếu tố của cuộc trổi dậy tôn giáo bùng lên tại Arabia do phong trào Wahhabi , được dòng họ Saud , những người khai lập ra nhà nước Saudi ủng hộ . Trong suốt thời gian chịu ảnh hưởng Anh – Pháp và sau đó là sự thống trị tại vùng Trung đông vào thế kỷ 19 và 29 , các thế lực đế quốc đã cai trị Ai cập , Sudan , Iraq , Syria và Palestine. Các cường quốc tuy chỉ mới đã gặm những phần đất ngoài rìa bán đảo Ả -rập , tại Aden và vịnh Ba tư , nhưng cũng đủ để đặt căn cứ quân sự và can thiệp chính trị tối thiểu vào tình bình nội bộ của vùng này.
Khi nào mà sự can thiệp của ngoại bang chỉ khu trú về mặt kinh tế , và cũng chỉ khi nào mà những đền bù vật chất thừa thải , xoa dịu được những nổi bất bình , thì tín đồ Hồi giáo mới chịu đựng đựơc sự hiện diện của những người không cùng tôn giáo . Nhưng trong những năm gần đây , các điều kiện cam kết đã thay đổi . Khi giá dầu giảm và dân số tăng , chi tiêu tăng , phần bù đắp ( rewards) không còn đầy đủ , thì những mối bất bình càng ngày càng càng trở nên nổi trội hơn ,ồn ào hơn . Và nước ngoài không chỉ nhúng tay vào các họat động kinh tế .Cách mạng tại Iran , các tham vọng của Saddam Hussein , và tất cả các vấn đề tại khu vực càng ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn , nhất là cuộc xung đột Israel-Palestine, đã làm cho nước ngoài can thiệp sâu hơn về mặt chính trị và quân sự , và như thế những tiếng kêu gào" chủ nghĩa đế quốc"càng được nhiều người nghe cho là có lý hơn .Khi có vấn đề liên quan đến đất thánh , dân Hồi giáo có khuynh hướng nhìn cuộc chiến , và đôi khi với cả kẻ thù nữa , dưới khía cạnh tôn giáo và cho rằng quân đội Mỹ chỉ là quân vô đạo và xâm lăng khi được gởi tới để giải phóng Kuwait và bảo vệ Saudi Arabia khỏi bị Saddam Hussein tấn công . Nhận thức này càng rõ hơn khi nước Mỹ là nước đầu têu rành rành trong số các cường quốc thuộc thế giới vô đạo .
Đối với đa số người Mỹ , tuyên bố của bin Ladin là 1 sự đùa cợt , một sự bóp méo trắng trợn về bản chất và mục đích sự hiện diện của Mỹ tại bán đảo Ả -rập . Họ cũng nên biết là đối với nhiều người , có lẽ là đa số dân Hồi giáo , tuyên bố này cũng là 1 sự đùa cợt trắng trợn về bản chất của Hồi giáo , ngay cả đối với học thuyết về thánh chiến Jihad . Kinh Qur’an đề cập đến chiến tranh cũng như hòa bình . Trong số hàng trăm ngàn truyền thuyết và lời dạy ít nhiều đựơc gán cho Đấng tiên tri và đựơc diễn giải đôi khi theo rất nhiều cách , dẫn tới nhiều chỉ dạy khác nhau , trong số đó sự diễn giải tôn giáo dưới khía cạnh bạo lực và vũ lực chỉ là một .
Trong lúc đó , có một số đáng kể các tín đồ Hồi giáo sẳn sàng đồng ý , và một số ít đem ra áp dụng , cách thể hiện tôn giáo của họ theo kiểu này . Chủ nghĩa khủng bố chỉ cần đến 1 số ít người . Hiển nhiên là phương tây phải tự vệ bằng bất cứ phương tiện nào có được . Nhưng trong khi nghĩ ra cách để chống lại bọn khủng bố , rõ ràng là cũng cần hiểu rõ động lực nào đã thúc đẩy chúng .
Chương 1
Định nghĩa Hồi giáo
Khó mà khái quát hóa về Hồi giáo . Trước hết , bản thân của từ này thường đựơc sử dụng với 2 nghĩa khác nhau nhưng lại liên quan với nhau , tương đương với đạo Cơ đốc ( Christianity ) và thế giới Cơ đốc ( Christendom ) . Một nghĩa để biểu thị một tôn giáo , 1 hệ thống niềm tin và thờ phượng ; một nghĩa khác , đó là 1 nền văn minh được sản sinh và nẩy nở dưới sự bảo trợ của tôn giáo đó . Bản thân từ Hồi giáo ( Islam ) đã là một lịch sử trên 14 thế kỷ , với 1 tỷ 300 triệu tín đồ và một truyền thống tôn giáo và văn hóa cực kỳ đa dạng . Đạo Cơ đốc và thế giới Cơ đốc đại diện cho một thời kỳ dài hơn và giáo đồ lớn hơn – trên 2 tỉ tín đồ , trên 20 thế kỷ và tính đa dạng thậm chí còn lớn hơn. Tuy nhiên , một số khái quát hóa có thể đưa ra và đã được đưa ra về cái gọi là nền văn minh Cơ đốc , Do thái – Cơ đốc , hậu Cơ đốc và - đơn giản hơn - phương Tây . Trong khi việc khái quát hóa nền văn minh Hồi giáo có thể khó khăn hơn và có lúc nguy hiểm , nhưng lại là việc không thể không làm và lắm khi cũng có phần hữu dụng .
Về mặt không gian , cương vực Hồi giáo trải dài từ Morocco tới Indonesia , từ Kazakhstan đến Senegal . Về mặt thời gian , đạo này đã có hơn 14 thế kỷ , tính từ lúc Đấng tiên tri bắt đầu giảng đạo tại bán đảo Ả -rập vào thế kỷ thứ 7 và ngài đã chủ trì dựng ra 1 cộng đồng và 1 đất nước Hồi giáo . Trong giai đoạn mà các sử gia châu Âu gọi là thời kỳ đen tối chen giữa sự suy tàn của nền văn minh cổ đại – Hy lạp và La mã - và sự trổi dậy của văn minh cận đại – Châu Âu , thì Hồi giáo là 1 nền văn minh chủ đạo trên thế giới , đựơc đánh dấu bởi các vương quốc to lớn và hùng mạnh , có nền kỹ nghệ và thương mãi phong phú và đa dạng , nền khoa học và văn chương độc đáo và sáng tạo . Hồi giáo , vượt xa hơn Cơ đốc giáo nhiều mặt , là giai đọan trung gian giữa Đông phương cổ đại và Tây phương cận đại trong đó có phần đóng góp đáng kể của tôn giáo này . Tuy nhiên trong 3 thế kỷ vừa qua , thế giới Hồi giáo đã đánh mất thế thống trị và vai trò lãnh đạo , và đã tụt hậu sau cả phương Tây hiện đại lẫn phương Đông cách tân một cách nhanh chóng . Cái hố ngăn cách càng ngày càng rộng này đã đặt ra những vấn đề cấp bách , cả về mặt thực tiển lẫn tình cảm , mà cho tới nay các nhà lãnh đạo , nhà tư tưởng và kẻ nổi lọan của Hồi giáo vẫn chưa tìm ra được câu trả lời phù hợp
Với tính cách là 1 tôn giáo , Hồi giáo về mọi mặt đều rất gần gũi với truyền thống Do thái- Cơ đốc hơn bất cứ tôn giáo lớn nào tại châu Á như đạo Hindu , đạo Phật hoặc đạo Khổng . Đạo Do thái và đạo Hồi có chung 1 niềm tin về 1 qui luật thần thánh chi phối mọi mặt của sinh họat con người , bao gồm cả đồ ăn thức uống . Tín đồ đạo Cơ đốc và đạo Hồi đều có chung tính thần hiếu thắng ( triumphalism) . Ngược lại với các tôn giáo khác của nhân lọai , kể cả đạo Do thái , 2 tôn giáo trên tin rằng chỉ có họ là những người may mắn tiếp thu và gìn giữ thông điệp cuối cùng của Thượng đế đối với con người , và họ có nhiệm vụ mang lại cho phần còn lại của thế giới . So sánh với những tôn giáo xa hơn ở phương đông , tất cả 2 tôn giáo ở vùng Cận đông - đạo Do thái , đạo Cơ đốc và đạo Hồi - đều có liên hệ chặt chẽ với nhau và đúng ra chỉ là các biến thể của cùng 1 truyền thống tôn giáo .
Thế giới Cơ đốc ( Christendom ) và Hồi giáo về nhiều mặt là những nền văn minh anh em , cả 2 đều bắt nguồn từ di sản chung về sự mặc khải và tiên tri của người Do thái và khoa học , triết học của người Hi lạp , và cả 2 đều đựơc nuôi dưỡng bởi các truyền thống xa xưa của vùng Trung đông cổ đại . Trong phần lớn lịch sử chung của họ , họ đã từng sát phạt nhau , nhưng ngay cả trong chiến đấu và tranh luận , họ đều có những nét giống nhau cơ bản và những đặc trung chung đã nối kết họ với nhau , và làm cho họ xa cách với những nền văn minh xa xôi hơn ở châu Á .
Nhưng dù có những nét tương đồng , vẫn có những cách biệt sâu sắc giữa 2 tôn giáo này , đưa tới những khác biệt hiển nhiên về giáo lý và cách thờ phượng . Không có nơi nào mà những sự khác biệt trở nên sâu sắc –và hiển nhiên- hơn là ở thái độ của 2 tôn giáo này , và ở các điểm dẫn giải có thẩm quyền , đối với các mối quan hệ giữa nhà nước , tôn giáo và xã hội . Người sáng lập ra đạo Cơ đốc truyền dạy cho các tông đồ"hãy trả cho Caesar những gì của Caesar , và trả cho Chúa những gì của Chúa"( Matt .XXII:20 ) - và trong nhiều thế kỷ , đạo Cơ đốc đã ra đời và lớn mạnh như là 1 tôn giáo của những con người bị áp bức , cho tới khi hòang đế Constantine cải giáo , thì chính Hòang đế La mã ( Caesar) mới trở thành 1 người Cơ đốc và đưa ra một lọat những thay đổi đưa đế quốc La mã theo 1 tín ngưỡng mới và làm chuyển đổi thế giới . Người sáng lập đạo Hồi chính là vua , đã sáng lập ra nhà nước và đế quốc cho chính mình . Như thế Ngài không tạo ra - hoặc cần phải tạo ra - một giáo hội . Sự phân tách giữa nhà nước ( regnum) và giáo hội ( sacerdotium ) , rất là quan trọng đối với đạo Cơ đốc phương Tây , nhưng không hề có tương đương trong đạo Hồi . Khi Muhamad còn sống , đạo Hồi lập tức trở thành 1 cộng đồng chính trị và tôn giáo , với đấng Tiên tri là người đứng đầu nhà nước . Với vai trò này , Ngài cai quản 1 vùng lãnh thổ và 1 dân tộc , đứng ra xử kiện , thu thuế , chỉ huy quân đội , phát động chiến tranh và đem lại hòa bình . Đối với thế hệ khai sáng đầu tiên của người Hồi giáo , những người đã làm nên những cuộc phiêu lưu trong lịch sử thần thánh của Hồi giáo , không hề bị thử thách bằng sự ngược đãi , không có truyền thống chống đối thù nghịch của quyền lực nhà nước . Ngược lại , nhà nước cai trị họ là 1 nhà nước Hồi giáo , và Thượng đế chuẩn y chính nghĩa của họ qua việc ban cho họ sự chiến thắng và 1 đế quốc dưới cỏi thế gian trần tục này .
Vào thời La mã dị giáo , Caesar là Chúa . Đối với người Cơ đốc , có sự lựa chọn giữa Thượng đế và Caesar , và có biết bao thế hệ người Cơ đốc đã bị trói buộc vào sự lựa chọn này . Với Hồi giáo , không hề có sự lựa chọn đau đớn đó . Theo cái tổ chức xã hội phổ quát dưới mắt người Hồi giáo , không hề có Caesar nào cả mà chỉ có 1 Thượng đế là đấng cai trị duy nhất và đưa ra luật lệ duy nhất . Muhammad là Tiên tri của Thượng đế , khi còn sống là người giảng đạo và cai trị dưới danh Thượng đế . Khi Muhammad chết vào năm 632 CE, ngài đã hòan thành sứ mạng tiên tri và tinh thần là đưa Thiên kinh Qur’an đến với lòai người . Phần còn lại là sứ mạng tôn giáo nhằm quảng bá sự mặc khải của Thương đế cho đến khi tòan thế giới thảy đều chấp nhận đạo Hồi . Có được điều này thì phải mở rộng thẩm quyền và gia tăng số lượng tín đồ trong cộng đồng là những người gìn giữ 1 tín ngưỡng chân chính và tuân thủ luật của Thương đế . Nhằm tạo ra 1 sự gắn bó và lãnh đạo cần thiết , cần phải có 1 người kế nghiệp cho Đấng tiên tri . Theo tiếng Ả -rập , Khalifa là tước hiệu dành cho Abu Bakr , là cha vợ của Tiên tri , là người kế tục đầu tiên , đứng lên nắm lấy vai trò người đứng đầu cọng đồng Hồi giáo đã tạo ra được nền móng cho 1 định chế Caliphate to lớn trong lịch sử .
Dưới sự lãnh đạo của Caliph , cộng đồng Hồi giáo tại Medina , nơi mà Đáng Tiên tri thống trị , chỉ trong vòng 1 thế kỷ đã lớn mạnh thành 1 đế quốc rộng lớn , và Hồi giáo đã trở thành 1 tôn giáo thế giới . Theo trải nghiệm của những tín đồ Hồi giáo đầu tiên , đã được ghi chép và lưu truyền cho các thế hệ sau , thì chân lý tôn giáo và quyền lực chính trị có liên quan không thể tách rời được : cái trước biện hộ cho cái sau , cái sau làm cho cái trước bền vững . Ayatolla Khomeini có lần đã đưa ra ý kiến"Hồi giáo là chính trị hoặc không là gì hết". Không phải mọi tín đồ Hồi giáo đều cực đoan đến thế , nhưng đa số đều nhất trí rằng Thượng đế có tham gia vào chính trị , và niềm tin này đựơc luật Shari’a xác nhận và duy trì , cho rằng Luật Hồi giáo liên quan rất nhiều đến tính hợp pháp và thẩm quyền , các nghĩa vụ của người cai trị và thần dân , nói vắn tắt , đó là những điều mà phương Tây gọi là luật hiến pháp và triết lý chính trị .
Mối liên hệ lâu đời qua lại giữa đạo Hồi và đạo Cơ đốc và chính những sự tương đồng và những ảnh hưởng qua lại giữa 2 tôn giáo đôi khi làm cho các nhà quan sát bỏ qua những dị biệt quan trọng . Mọi người cho rằng , Qur’an là kinh thánh của Hồi giáo , đền thờ là nhà thờ Hồi giáo , và ulema là tăng sĩ Hồi giáo . 3 điều này đều đúng , nhưng lại là những điều sai lệch nghiêm trọng . Cựu ước và Tân ước gồm có nhiều quyển khác nhau , trải dài 1 thời gian dài và đựơc các tín đồ coi là sự thể hiện sự mặc khải của các thánh . Còn Qur’an , đối với người đạo Hồi , là 1 quyển kinh duy nhất được 1 người là Tiên tri Muhammad đưa ra trong đời ngài . Sau những cuộc tranh luận rộng rãi vào những thế kỷ đầu tiên của Hồi giáo , học thuyết đựơc chấp nhận là Kinh Qur’an tự nó không hề đựơc ai viết ra , có tính vĩnh viễn , thần thánh và bất di bất dịch . Điều này đã trở thành 1 giáo lý trung tâm của tín ngưỡng .
Đền thờ mosque qủa thật là 1 giáo đừơng Hồi giáo theo nghĩa là 1 chỗ để thờ phụng chung cho cộng đồng . Nhưng ta không thể nói đến mosque như một nhà thờ Cơ đốc đựơc - như là 1 định chế có ngôi thứ và luật lệ riêng , đối nghịch với nhà nước . Còn ulema ( tại Iran và những nước Hồi giáo chịu ảnh hưởng văn hóa Ba tư thì gọi là mollah ) có thể coi như là những chức sắc tôn giáo theo nghĩa xã hội học , tức là những người làm tôn giáo chuyên nghiệp được chứng nhận đã qua đào tạo . Nhưng trong Hồi giáo lại không có giới tu sĩ - giữa Thượng đế và tín đồ không có tu sĩ làm trung gian , không có sự thụ phong , không ban phứơc , không có qui định là tu sĩ mới được hành lễ . Ta cũng có thể bổ sung là trong qúa khứ , không hề có công đồng hoặc hội nghị tôn giáo , không có linh mục hoặc phán quan để buộc mọi người phải theo giao lý chính thống . Nhưng tại Iran , những điều này không hòan tòan đúng như vậy.
Chức năng chính của ulema - theo tiếng Ả -rập có nghĩa là kiến thức - là người gìn giữ và diễn giải Luật thánh . Vào cuối thời trung cổ , xuất hiện một hình thức giống như giáo khu , để chăm sóc các nhu cầu của thường dân tại các đô thị và làng mạc , nhưng những tổ chức này có tính thần bí hơn là theo đúng giáo lý Hồi giáo nên thường tách rời và các ulema cũng không mấy thích thú . Tại các vương triều Hồi giáo sau này , như Thổ nhĩ kỳ và Iran , một hình thức thứ bậc tu sĩ xuất hiện , nhưng lại không ăn nhập gì đến truyền thống Hồi giáo cổ điển , và các thành viên của những đẳng cấp tôn giáo này không hề , cho đến nay vẫn thế , đòi hỏi có được quyền lực của các giám mục Cơ đốc .Vào thời cận đại , sau bao biến đổi , chủ yếu là do ảnh huởng của phương tây , đã hình thành các định chế và nghề nghiệp có nét hơi giống đáng ngờ với các giáo hội và tu sĩ của đạo Cơ đốc . Nhưng đây là những điểm xa rời chứ không phải là quay về với đạo Hồi cổ điển .
Nếu ta có thể nói một chút gì về chức sắc tôn giáo theo cái nghĩa hạn hẹp về xã hội học trong thế giới Hồi giáo , thì lại không hề có ý nghĩa gì nếu ta nói đến con người thế tục . Chính cái ý niệm về một cái gì đó tách rời hoặc thậm chí có thể phân tách được khỏi thẩm quyền tôn giáo , theo các ngôn ngữ Cơ đốc thì những từ như không thuộc giáo hội , trần gian hoặc thế tục , quả là hòan tòan xa lạ với tư tưởng và thực hành đạo Hồi . Chỉ mới đến thời cận đại tương đối gần đây mới có những chữ tương đương trong tiếng Ả -rập. Đó là những từ do những người Cơ đốc nói tiếng Ả -rập vay mượn hoặc đặt mới .
Thuở sinh thời đấng Tiên tri , xã hội Hồi giáo có 2 bản chất . Một mặt , đó là 1 tổ chức nhà nước - mà vai trò thủ lãnh lần lượt đi từ 1 quốc gia đến 1 đế quốc . Đồng thời , mặt khác , đó là 1 cộng đồng tôn giáo , do Đấng Tiên tri sáng lập , được các đại diện cũng là những người kế vị của Ngài cai trị . Jesus bị đóng đinh trên thập giá , Moses chết khi chưa đến được miền đất hứa ; cho nên niềm tin cũng như thái độ của tín đồ các đạo Do thái và cơ đốc vẫn còn chịu ảnh hưởng sâu đậm khi nhớ lại những sự kiện đó . Muhammad đã chiến thắng trong đời của Người , và khi chết là 1 người chiến thắng và 1 quân vương . Lịch sử về tôn giáo của họ sau này có thể khẳng định cho các thái độ xuất phát từ đó của người đạo Hồi . Tại Tây Âu , những kẻ xâm lược là bán khai nhưng dễ dạy khi tiếp xúc với 1 nhà nước và 1 tôn giáo có sẵn , như đế quốc La mã và Giáo hội Cơ đốc . Kẻ xâm lược chấp nhận cả 2 , và cố gắng phục vụ các nhu cầu và mục đích của họ trong khuôn khổ hiện có của thể chế xã hội La mã và Giáo hội Cơ đốc có sẳn , cả 2 đều sử dụng tiếng La tinh . Người Hồi giáo Ả -rập khi xâm lược vùng Trung đông và Bắc Phi đã mang theo tín ngưỡng , chữ viết riêng của họ bằng chính ngôn ngữ của họ ; họ tạo ra 1 xã hội có tổ chức riêng , có 1 bộ luật mới , 1 ngôn ngữ đế quốc mới và 1 cơ cấu đế quốc mới , với Caliph là người đứng đầu . Nhà nước và tổ chức xã hội này được Hồi giáo qui định và quyền tham gia đầy đủ chỉ dành cho những ai biểu lộ lòng tin nổi trội .
Sự nghiệp của Đấng tiên tri Muhammad , về mặt này cũng như trên tất cả các mặt khác mà mọi tín đồ tốt phải noi theo , chia ra làm 2 phần . Trong phần đầu , trong những năm tại quê hương , Mecca ( ?570-622) , ngài là người đối đầu với chế độ tà giáo đầu sỏ . Trong phần 2 , sau khi chuyển từ Mecca đến Medina (622-632) , ngài là người đứng đầu nhà nước . Hai thời kỳ trong sự nghiệp của Đấng tiên tri , một là của sự phản kháng , một là của luật lệ , cả 2 đều đựơc phản ánh trong kinh Qur’an , từng chương một , tín đồ buộc phải tuân phục người đại diện cho Thượng đế , và không đựơc nghe theo Pharaon , tức là kẻ cai trị độc tài và bất chính . 2 khía cạnh này trong cuộc đời và sự nghiệp của Đấng tiên tri gợi nên 2 truyền thống trong đạo Hồi , 1 là độc đóan và thanh tịnh , còn mặt kia là cấp tiến và hành động . Cả 2 mặt đều đựơc phản ánh rộng rãi , một mặt là ở sự phát triển của truyền thống , mặt kia khi các biến cố xảy ra . Không phải lúc nào cũng dễ dàng xác định ai là đại diện cho Thượng đế và ai là Pharaon ; đã có biết bao nhiêu sách đựơc viết ra và nhiều trận chiến nổ ra nhằm làm rõ điều này . Vấn đề vẫn còn mãi mãi và cả 2 truyền thống đều có thể thấy rất rõ trong những trận luận chiến và trong thời đại chúng ta vấn đề đựơc giải quyết bằng vũ lực .
Ở giữa 2 thái cực là thanh tịnh và cấp tiến , phần lớn đều bày tỏ 1 thái độ thận trọng , thậm chí là ngờ vực đối với chính quyền . 1 ví dụ là sự khác biệt sắc nét về thái độ của người dân vào thời trung cổ đối với quadi ( quan tòa ) , và với mufti ( cố vấn pháp lý ) .Theo Luật thánh . Qadi , do nhà vua bổ nhiệm , mà trong văn học và truyền thống dân gian là 1 khuôn mặt dễ mua chuộc , thậm chí còn lố bịch nữa ; còn mufti , chỉ đến thời trung cổ Hồi giáo mới có , lại được các đồng nghiệp và nhân dân thừa nhận , là người được kính trọng và mến mộ . 1 chủ đề truyền thống ( topos ) trong tiểu sử những con người ngoan đạo - mà chúng ta có đến hàng trăm ngàn người như thế - là 1 đấng anh hùng được nhà nước tặng cho chức tước nhưng lại từ chối . Ban tặng chức tước vì có học vấn và danh tiếng , còn từ chối là vì lòng chính trực .
Vào thời đế chế Ottoman đã xảy ra 1 sự thay đổi quan trọng . Vị quadi chiếm đựơc nhiều quyền lực , và ngay cả vi Mufti cũng bị lôi kéo vào hệ thống công quyền . Nhưng thái độ nghi ngờ xưa cũ đối với chính quyền vẫn còn , và lại thường được giải bày qua các châm ngôn , chuyện kể dân gian và ngay cả trong văn học nữa .
Qua hơn 1 ngàn năm , đạo Hồi chỉ đưa ra 1 bộ luật và các nguyên tắc đựơc nhiều người chấp nhận để quản lý đời sống xã hội và công cọng . Ngay cả trong thời kỳ ảnh hưởng châu Âu cực thịnh , tại các quốc gia đựơc các cuờng quốc đế quốc châu Âu cai trị hoặc thống trị cũng như tại các nước vẫn còn độc lập , thì các khái niệm và thái độ chính trị Hồi giáo vẫn còn có ảnh huởng sâu đậm . Trong những năm gần đây , có nhiều dấu hiệu cho thấy những khái niệm và thái độ này có thể phục hồi mạnh mẽ như xưa, dù hình thức có thay đổi .
Chính trong lãnh vực chính trị - đối nội , trong vùng cũng như quốc tế - mà chính ta thấy sự khác biệt rõ rệt nhất giữa đạo Hồi và phần còn lại của thế giới. Các nhà lãnh đạo hoặc bộ trưởng ngọai giao của các nước Bắc Âu và Anh quốc , chưa bao giờ tụ tập tham dự các hội nghị thượng đỉnh Tin lành , hoặc chưa bao giờ người đứng đầu của Hi lạp , Nam tư , Bulgiaria và Liên Xô , tạm thời bỏ qua những khác biệt chính trị và ý thức hệ , để tham gia các hội nghị thường xuyên dựa trên cơ sở là hiện nay hoặc trước kia đó là các nước theo Chính thống giáo . Tương tự như vậy , các nước theo đạo Phật tại Đông và Đông nam Á không lập ra 1 khối Phật giáo tại Liên hợp quốc hoặc trong các sinh họat chính trị khác của họ . Ý tuởng dựa vào 1 tôn giáo , trong thế giới hiện nay xem ra có vẻ lỗi thời và thậm chí còn vô lý nữa . Nhưng với đạo Hồi thì không hề lỗi thời và vô lý chút nào . Trong súôt thời kỳ chiến tranh lạnh căng thẳng và sau đó , có hơn 50 chính phủ Hồi giáo – bao gồm các nước quân chủ và cọng hòa , bảo thủ và cấp tiến , theo chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội , ủng hộ phương tây , phương đông và cả 1 loạt các kiểu trung lập – đã dựng nên 1 bộ máy phức tạp dành cho việc tham khảo ,và hợp tác nhiều mặt giữa các nước với nhau .
Vào tháng 11/1969 , 1 hội nghị thượng đỉnh Hồi giáo họp tại Rabat , Maroc , quyết định thành lập 1 cơ quan gọi là Tổ chức Hội nghị Hồi giáo ( Organization of Islamic Conference = OIC ) , với ban thư ký thường trực đóng tại Jedda , Saudi Arabia . Cơ quan này ra đời ngay , và phát triển nhanh trong thập niên 1970 . OIC chú trọng nhiều đến việc giúp đỡ các nước Hồi giáo nghèo , hỗ trợ cho các nhóm thiểu số Hồi giáo tại các quốc gia không Hồi giáo và vị thế quốc tế của đạo Hồi và của tín đồ đạo Hồi - theo lời của 1 quan sát viên , là quyền con người theo Hồi giáo .
Tổ chức này hiện nay có 57 thành viên , cọng với 3 quan sát viên . 2 trong 3 nước này là Albani và Thổ nhĩ kỳ , là những nước châu Âu hoặc thiết tha muốn thuộc về châu Âu ( Bosnia chỉ đựơc qui chế quan sát viên ) ; 2 nước khác , Surinam ( gia nhập năm 1996) và Guyana ( năm 1998 ) , nằm ở tây bán cầu . Phần còn lại đều nằm ở châu Á và châu Phi , trừ một vài ngọai lệ , đều là những nước mới dành đựơc độc lập vào cúôi thế kỷ 20 từ các nước Tây Âu , hoặc gần đây hơn là từ Liên xô . Đa số đều là các nước có dân cư phần lớn theo đạo Hồi , mặc dù có 1 số ít nước đựơc gia nhập vì sức mạnh của thiểu số Hồi giáo . Bên cạnh những nước này , có 1 số thiểu số Hồi giáo quan trọng tại các quốc gia khác - một số cũng na ná như nhóm đa số , như tại Ấn độ ; một số thì về mặt chủng tộc và tôn giáo lại khác hẳn , như người Chechen và Tatar thuộc Liên bang Nga . Một số quốc gia nhự Trung quốc , cũng có thiểu số Hồi giáo nằm trong 2 tình huống trên . Hiện nay còn có nhiều nước có thiểu số Hồi giao do di dân .
Đã và đang có những hạn chế quan trọng về tính hữu hiệu của OIC với tính cách là 1 yếu tố trên trừơng chính trị quốc tế . Khi Liên xô xâm chiếm Afganistan vào năm 1979 , hành động xâm lược trắng trợn đối với 1 quốc gia Hồi giáo có chủ quyền , đã không tạo nên sự phản kháng nghiêm túc nào , thậm chí còn đựơc một số thành viên bảo vệ nữa . Gần đây hơn , cơ quan này cũng không quan tâm mấy đến những cuộc nội chiến tại các nước thành viên như Sudan và Somalia . Thành tích của OIC đối với các vấn đề trong vùng cũng không có gì nổi bật . Từ năm 1980 đến 1988 , 2 nước Hồi giáo là Iran và Iraq , đã đánh nhau chí tử với tổn thất rất nặng nề cho cả 2 bên . OIC chẳng hề làm gì để ngăn ngừa hoặc kết thúc cuộc chiến này . Nói chung , OIC , không giống như tổ chức các quốc gia châu Mỹ và Tổ chức Thống nhất châu Phi , không hề quan tâm đến sự vi phạm nhân quyền và các vấn đề nội bộ của các nước thành viên , mối quan tâm về nhân quyền của OIC đối với các tín đồ đạo Hồi sống tại các nước không - Hồi giáo , trước hết là tại Palestine, cũng không nhiều . Tuy nhiên , không nên xem nhẹ tổ chức OIC . Các họat động văn hóa và xã hội của tổ chức này càng ngày càng trở nên quan trọng , và bộ máy giúp cho công tác tham khảo thường xuyên giữa các nước thành viên có thể đóng vai trò quan trọng hơn một khi chiến tranh lạnh cùng các tác động xâu xé của nó lùi vào quá khứ .
Đi từ các vấn đề chính trị quốc tế và khu vực sang nội bộ , thì sự khác biệt giữa Hồi giáo và phần còn lại của thế giới , dù ít nổi bật hơn , nhưng vẫn khá quan trọng . Tại một số các quốc gia đang thực hiện dân chủ đa đảng , có những chính đảng theo chủ trương tôn giáo - đạo Cơ đốc tại phương Tây , đạo Hindu tại Ấn độ , đạo Phật tại phương Đông . Nhưng những đảng này tương đối không nhiều , và những đảng đóng vai trò chính lại còn ít hơn . Nhưng ngay cả đối với những đảng này , thì chủ đề tôn giáo thường không quan trọng mấy trong chương trình hành động của họ cũng như sức lôi cuốn của chủ đề này đối với cử tri . Tuy nhiên tại nhiều nước , đúng ra là đa số , các nước Hồi giáo , tôn giáo vẫn là 1 yếu tố chính trị chính – các vấn đề đối nội còn quan trọng hơn quốc tế hoặc trong vùng . Tại sao có sự khác biệt này?.
Một câu trả lời rất rõ ràng; phần lớn các nước đạo Hồi vẫn còn mang ảnh hưởng Hồi giáo rất nặng , nếu xét theo nghĩa này thì đa số các nước đạo Cơ đốc không còn mang tính Cơ đốc nữa . Phải thừa nhận rằng , nhiều nước trong nhóm các nước này , niềm tin Cơ đốc và giới tăng lữ duy trì niềm tin này vẫn còn là lực lượng có thế lực , và mặc dù vai trò của họ tuy không còn được như trong các thế kỷ trước , nhưng không hề giảm ý nghĩa. Nhưng hiện nay , không có quốc gia Cơ đốc nào mà các nhà lãnh đạo tôn giáo lại trông chờ vào mức độ tin tưởng và tham gia vào tôn giáo như vẫn xảy ra bình thường tại các lãnh thổ đạo Hồi . Ít quốc gia Cơ đốc nào , nếu có , lại coi tính thiêng liêng Cơ đốc là điều cấm kỵ , không được đem ra bình phẩm hoặc thảo luận thấu đáo . Còn tại các nước đạo Hồi tính cấm kỵ này là đương nhiên ngay cả ở các xã hội thế tục và dân chủ về hình thức . Thực vậy , tính cấm kỵ theo đặc quyền này đã được mở rộng , trên thực tế , đến những quốc gia châu Âu nơi có các cộng đồng Hồi giáo đến sinh sống và nơi mà tín ngưỡng và thực hành đạo Hồi được hưởng một mức độ miễn trừ không bị phê phán mà đa số người Cơ đốc đã đánh mất và người Do thái chưa bao giờ có được . Điều quan trọng nhất là , với rất ít ngọai lệ , giới tăng lữ Cơ đốc không hành sử hoặc thậm chí đòi phải có cái thẩm quyền công khai vẫn đựơc coi là bình thường và được chấp nhận tại phần lớn các quốc gia Hồi giáo .
Mức độ tin tưởng và thực hành tôn giáo cao hơn ở tín đồ đạo Hồi khi so sánh với những người theo tôn giáo khác chỉ giải thích một phần , chứ không phải là tòan thể , cái thái độ Hồi giáo độc đáo đối với chính trị bởi vì ta cũng có thể gặp thái độ này ở các cá nhân và thậm chí những nhóm người mà sự sốt sắng với niềm tin và thực hành tôn giáo chỉ có tính chiếu lệ . Hồi giáo không những chỉ là niềm tin và thực hành , mà còn là 1 bản sắc và sự trung thành - mà đối với nhiều người , không có gì vượt qua được bản sắc và sự trung thành .
Nhìn bề ngoài , thì việc du nhập các ý niệm phương tây về lòng ái quốc và chủ nghĩa quốc gia đã thay đổi mọi thứ và đưa tới sự thành lập một lọat các nhà nước cận đại , đã mở rộng thế giới Hồi giáo từ Morocco tới Indonesia . Nhưng những cái lộ ra bề mặt không phải là tất cả . Kể ra 2 ví dụ cũng đủ . Năm 1923 , sau chiến tranh lần chót giữa Hilạp- Thổ , 2 chính phủ đồng ý giải quyết các vấn đề về nhóm dân thiểu số bằng cách trao đổi cho nhau - người Hi lạp được chuyển từ Thổ sang Hi lạp , người Thổ từ Hi lạp sang Thổ . Ít nhất thì đó cũng là những gì mà các sách lịch sử thuật lại . Nhưng thực tế lại có phần khác hẳn . Trong nghị định thư mà 2 nước ký tại Lausanne năm 1923 , chỉ nêu ra thỏa thuận trao đổi , không hề nói đến"người Hi lạp"và "người Thổ ‘ . Nghị định thư nêu rõ những người được trao đổi là"công dân Thổ theo đạo Chính thống Hi lạp đang sống tại Thổ nhĩ kỳ và" công dân Hi lạp theo đạo Hồi đang sống tại Hi lạp". Như vậy nghị định thư chỉ thừa nhận có 2 lọai bản sắc - một là xác định theo công dân của 1 quốc gia , còn cái kia là tín đồ của 1 tôn giáo . Nghị định thư không hề nhắc đến tính chất dân tộc về mặt chủng tộc hoặc ngôn ngữ . Tính chính xác của tài liệu này nhằm nêu rõ ý đồ của các bên tham gia ký kết đã đựơc xác định bằng việc trao đổi trên thực tế . Nhiều người trong số những người gọi là người Hi lạp từ tỉnh Karaman thuộc vùng Anatolia ( Thổ ) nói tiếng mẹ đẻ là tiếng Thổ nhưng viết theo mẫu tự Hi lạp và theo đạo Chính thống . Nhiều người trong số những người tạm gọi là người Thổ sống tại Hi lạp chỉ biết chút ít hoặc không biết tiếng Thổ và thường nói tiếng Hi lạp - nhưng lại viết bằng mẫu tự Thổ - Arập. Một quan sát viên Tây phương , quen theo hệ thống phân lọai phương tây , có thể kết luận rằng những gì mà các chính phủ Hi lạp và Thổ nhĩ kỳ thỏa thuận và đạt được không phải là sự trao đổi và hồi hương của các nhóm thiểu số Hi lạp và Thổ nhưng đúng ra là vừa trục xuất và vừa lưu đày - người Hi lạp Hồi giáo về Thổ nhĩ kỳ , và người Thổ Cơ đốc về Hi lạp . Cho đến mãi gần đây , Hi lạp và Thổ nhĩ kỳ , cả 2 đều là các nước dân chủ theo phương tây , một nước đã là thành viên , nước kia đang làm đơn xin gia nhập Liên hiệp châu Âu ( EU) , đã nêu ra vấn đề tôn giáo trong các văn kiện nhà nước .
Ví dụ thứ 2 là Ai cập. Có ít quốc gia nào đúng nghĩa hơn - một quốc gia được được định nghĩa sắc nét với lịch sử và địa lý , có 1 lịch sử văn minh liên tục từ 5000 năm trước đó . Nhưng Ai cập lại có nhiều bản sắc , và trong 14 thế kỷ gần đây , tức là từ khi Hồi giáo Ả -rập chinh phục Ai cập vào thế kỷ thứ 7 và sau đó bị Hồi giáo hóa và Arập hóa đất nước này , thì bản sắc Ai cập ít khi nào đựơc nổi trội , nhường lại cái tự hào cho bản sắc văn hóa và ngôn ngữ Ả -rập và , trong phần lớn lịch sử của nước này , đã nhường chỗ cho bản sắc tôn giáo đạo Hồi .Với tính cách quốc gia , Ai cập là 1 trong những quốc gia cổ xưa nhất trên thế giới . Còn Ai cập là nhà nước-quốc gia là 1 sự sáng tạo cận đại , và vẫn còn phải đối đầu với nhiều thách thức từ trong nước . Hiện nay , thách thức lớn nhất tại Ai cập cũng như tại một số nước Hồi giáo khác là do các nhóm Hồi giáo cấp tiến , thường đựơc gọi sai lệch là nhóm" chính thống” .
Kể từ thời của Người khai đạo , và vì thế trong các kinh thánh , trong tâm trí và kí ức của người Hồi giáo , đạo Hồi dính liền với sự hành sử quyền lực chính trị và quân sự . Đạo Hồi kinh điển thừa nhận rạch ròi giữa những việc của thế giới này và những việc của thế giới sau , giữa những điều quan tâm sùng đạo và trần tục . Đạo Hồi không thừa nhận 1 thể chế riêng rẽ , có tôn ti trật tự và luật pháp riêng , để điều phối những vấn đề tôn giáo .
Liệu điều này có nghĩa là Hồi giáo là 1 nền chính trị thần quyền ?. Theo chiều hướng Thượng đế được xem như là đấng cai trị tối cao , thì câu trả lời quả là đúng như thế. Theo chiều hướng 1 chính phủ cai trị bởi giới tăng lữ , thì hầu như chắc chắn là không phải. Sự xuất hiện của 1 hệ thống thứ bậc giới tăng lữ và việc nắm lấy quyền uy lớn nhất trong 1 nhà nước là 1 sự cải tiến hiện đại và là sự đóng góp độc đáo của cố giáo chủ Khomeini của Iran vào tư tưởng và thực hành Hồi giáo .
Cuộc cách mạng Hồi giáo tại Iran , giống như các cuộc cách mạng Pháp và Nga ở nhiều mặt , đã tạo nên 1 tác động to lớn không những chỉ ở trong nước và đối với dân chúng nước đó mà còn đối với các quốc gia và dân tộc có chung 1 thế giới quan . Cũng giống như cách mạng Nga và Pháp vào thời điểm nổ ra , cách mạng Hồi giáo cũng khơi dậy biết bao hy vọng và nhiệt tình . Giống như những cuộc cách mạng đó , nó đã dùng đến khủng bố rồi chiến tranh can thiệp ; cũng có các phái Jacobin và Bolshevik , quyết tâm đè bẹp bất cứ dấu hiệu nào của chủ nghĩa thực dụng hoặc ôn hòa . Và cũng giống như các cuộc cách mạng trước , nhất là cách mạng Nga , cách mạng Hồi giáo có cả 1 hệ thống các điệp viên và đặc sứ bằng đủ các cách cố đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng hoặc ít nhất thì cũng củng cố cái chế độ đựơc coi như là đại diện cho cuộc cách mạng đó.
Từ cách mạng bị sử dụng sai nhiều tại vùng Trung đông cận đại , được dùng cho - hoặc gán cho- nhiều biến cố mà đúng ra theo tiếng Pháp , đó là đảo chánh ( tiếng Pháp coup d’état , tiếng Đức putsh , tiếng Tây ban nha pronunciamiento ) . Điều thú vị là , theo kinh nghiệm chính trị của những dân tộc nói tiếng Anh lại không có thuật ngữ tương đương . Biến cố đang xảy ra tại Iran không giống chút nào những điều đã đề cập nhưng theo nguồn gốc thì đó là 1 cuộc vận động thay đổi có tính thực sự cách mạng . Giống như những cách mạng trước , có nhiều lúc lại bị sai lệch quá đà , đưa tới chế độ chuyên chế trong nước , khủng bố và lật đổ ở nước ngoài . Không giống như nước Pháp và nước Nga cách mạng , nước Iran cách mạng không hề có các phương tiện , nguồn lực , và kĩ năng để trở thánh cuờng quốc cũng như 1 mối đe doạ tầm cở thế giới . Mối đe doạ của cách mạng này chủ yếu và trước tiên chỉ nhằm tới tín đồ và đạo Hồi mà thôi .
Làn sóng cách mạng trong Hồi giáo có nhiều thành phần . Một trong những thành phần này là cái cảm giác bị lăng nhục : cảm nghĩ của 1 cộng đồng dân tộc quen xem mình là những người gìn giữ duy nhất chân lý của Thượng đế , được Người giao cho nhiệm vụ mang chân lý này đến những kẻ vô đạo , đột nhiên lại thấy mình bị cai trị và bị bóc lột bởi những kẻ vô đạo đó và , ngay cả khi không còn bị cai trị , vẫn còn tiếp tục chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi những phương cách đã làm thay đổi cuộc sống của họ , đẩy họ vào những con đường khác xa rời Hồi giáo chân thực . Thêm vào tủi nhục là sự nản lòng khi đưa ra nhiều biện pháp sửa chữa - đa số đều nhập từ phương Tây về - để rồi rồi lần lượt đều thất bại .
Sau sự tủi nhục và nản lòng là 1 thành tố thứ 3 , cần thiết cho sự nổi loạn - đó là sự tin tưởng và ý thức về quyền lực mới . Yếu tố này xuất hiện từ vụ khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 , khi ủng hộ cuộc chiến của Ai cập chống lại Israel, các nước Ả -rập sản xuất dần mỏ sử dụng việc cung cấp dầu và nâng giá dầu thành 1 vũ khí rất hiệu qủa . Sự giàu có , hãnh diện và tự tin đựơc củng cố thêm bởi 1 yếu tố mới – đó là sự khinh bỉ . Khi tiếp xúc gần gũi với châu Âu và Mỹ , các du khách đạo Hồi bắt đầu nhận xét và xem những gì họ thấy đựơc như là sự suy đồi đạo đức và coi đó là sự yếu đuối của nền văn minh phương Tây .
Trong 1 thời đại đầy rẩy những cung bậc cường điệu , các ý thức hệ chao đảo , lòng trung thành nhàm chán , và các định chế rệu rã , thì 1 ý thức hệ được diễn đạt bằng thuật ngữ đạo Hồi đã đưa ra đựơc nhiều ưu điểm : là 1 cơ sở hết sức quen thuộc về bản sắc riêng của từng nhóm người , là tình đoàn kết và chỉ dành cho người trong nhóm ; một cơ sở chấp nhận được về tính chính đáng và thẩm quyền ; một cách phát biểu dễ hiểu ngay về các nguyên tắc phê bình của hiện tại và 1 chương trình hành động trong tương lai . Qua đó , Hồi giáo có thể đưa ra các biểu tượng và khẩu hiệu hữu hiệu nhất để huy động nhằm ủng hộ hay chống lại 1 sự nghiệp hoặc 1 chế độ .
Các phong trào Hồi giáo cũng có 1 lợi thế cực kỳ khác không hề giống với tất cả các phong trào khác . Tại các đền thờ mosque , họ đều xây dựng 1 hệ thống liên kết và thông tin mà ngay cả các chính phủ độc tài nhất cũng không thể nào kiểm soát hết được . Thật vậy , các nhà độc tài tàn bạo giúp sức cho họ , dù không cố ý , bằng cách loại trừ các nhóm đối lập cạnh tranh .
Chủ nghĩa Hồi giáo cấp tiến ( Radical Islamism ) , mà ta thường gọi là Hồi giáo chính thống ( fundamentalism) , thật ra không phải là 1 phong trào đồng nhất đơn độc .Có nhiều kiểu chính thống Hồi giáo tại nhiều nước khác nhau và đôi khi thậm chí chỉ trong cùng 1 nước . Một số đựơc nhà nước bảo trợ - được chính phủ này hay chính phủ Hồi giáo khác công nhận , sử dụng và tích cực vận động vào các mục tiêu riêng của họ ; một số là các phong trào quần chúng đích thực do nhân dân lập ra . Trong số các phong trào Hồi giáo do nhà nước bảo trợ lại có nhiều loại , cấp tiến và bảo thủ , có tính lật đổ và ngăn chặn ( preemptive) . Các phong trào bảo thủ và ngăn chặn là do các chính phủ đang cầm quyền xướng ra , nhằm để tự bảo vệ họ khỏi làn sóng cách mạng . Đó là các phong trào nhiều lần đựơc các chính phủ Ai cập , Pakistan và nhất là Saudi Arabia khuyến khích . Còn loại kia , có tầm quan trọng hơn nhiều , từ cơ sở đi lên , có nền tảng bình dân thực sự . Phong trào đầu tiên trong loại này chiếm được quyền lực và hành công nhất trong sử dụng quyền lực là cách mạng Hồi giáo tại Iran . Các chế độ Hồi giáo cấp tiến hiện đang cầm quyền tại Sudan , và có lúc tại Afghanistan , và các phong trào Hồi giáo đang tạo ra các mối đe doạ chính cho cái trật tự từng bị lâm nguy ở những nước khác , nhất là Algeria và Ai cập .
Các nhóm Hòi giáo chính thống , không giống như các nhóm Tin lành ( Protestant ) – chính tên gọi chính thống vốn là của Tin lành , không đưa ra những khác biệt nào về so với cái chung về các vấn đề thần học hoặc cách diễn giải kinh thánh . Phê phán của họ nằm ở chiều hứơng rộng hơn , thuộc về xã hội . Theo cách nhìn của họ , thì thế giới Hồi giáo đã đi sai đường . Các nhà lãnh đạo của họ tự gọi mình là tín đồ đạo Hồi , giả vờ là người đạo Hồi , nhưng thực ra đó là những kẻ bỏ đạo đã chiếm đoạt đất Thánh và chấp nhận các luật lệ , phong tục của kẻ vô đạo xa lạ . Giải pháp duy nhất , theo họ , là quay về lối sống Hồi giáo đích thực , và vì thế việc loại bỏ các chính quyền phản đạo là bứơc cơ bản đầu tiên . Theo hướng này , thì các nhóm chính thống đều chống phương Tây bởi vì họ xem phương Tây như là nguồn gốc của tội lỗi đã làm xói mòn xã hội Hồi giáo , nhưng mũi tấn công đầu tiên của họ là nhắm vào các nhà lãnh đạo và cai trị của họ. Đó là các phong trào lật đổ vua Shah tại Iran năm 1979 và ám sát Tổng thống Sadat của Ai cập 2 năm sau đó . Cả 2 phong trào đều đựơc coi như là triệu chứng của 1 tai hoạ sâu xa hơn cần phải chữa trị bằng cách thanh trừng nội bộ . Tại Ai cập , họ đã giết nhà cai trị nhưng không chiếm đựơc nhà nước ; tại Iran họ phá huỷ 1 chế độ rồi dựng nên 1 chế độ của chính họ .
…………..
Hồi giáo là 1 tôn giáo lớn trên thế giới . Hồi giáo đã đem lại phẩm giá và ý nghĩa cho biết bào cuộc đời nghèo khó và buồn tẻ . Hồi giáo đã dạy nhiều người thuộc các chủng tộc khác nhau sống như huynh đệ và dạy các dân tộc có tín ngưỡng khác nhau cùng sống bên nhau khoan dung hợp lẽ . Hồi giáo là nguồn cảm hứng cho một nền văn minh lớn trong đó cùng với tín đồ Hồi giáo , những tín đồ tôn giáo khác đã cùng chia xẻ cuộc sống sáng tạo và hữu ích và những thành tựu của nền văn minh này đã tạo sự phồn vinh cho toàn thế giới . Nhưng cũng giống như mọi tôn giáo khác , Hồi giáo đã trải qua những giai đoạn mà qua đó làm cho một số tín đồ chỉ nhìn thấy sự thù hận và bạo lực . Quả là chúng ta không may mắn khi phải đối đầu với một phần thế giới Hồi giáo đang trải qua 1 giai đoạn như thế và khi phần lớn – dù rằng không phải tất cả - của những sự thù hận đó lại hướng về phía chúng ta .
Tại sao như vậy ?. Ta không nên thổi phồng tầm vóc vấn đề . Thế giới Hồi giáo không hề nhất trí về mặt từ bỏ phương tây cũng như thái độ thù nghịch không chỉ có ở những khu vực Hồi giáo thuộc Thế giới thứ 3 . Vẫn còn có một số đáng kể , trong một số khu vực lại là đa số, những tín đồ Hồi giáo cùng chia sẻ vơi chúng ta một số khát vọng và tín niệm cơ bản về văn hoá , đạo đức , chính trị và xã hội ; vẫn còn sự hiện diện đáng kể của phương tây – văn hoá , kinh tế , ngoại giao- tại các vùng đất Hồi giáo , trong số đó có một số là đồng minh của phương tây . Nhưng cũng có 1 làn sóng thù hận khiến ta phải lo âu , hoảng hốt và nhất là làm rối trí người Mỹ .
Thường thì sự căm ghét này vựơt quá mức độ thù địch đối với một số quyền lợi hoặc hành động hoặc các chính sách hoặc thậm chí đối với các quốc gia và trở thành sự chối bỏ nền văn minh tây phương nói chung , cũng không nhiều hơn đối với mức hiện có , và đối với các nguyên tắc và giá trị mà nền văn ninh này đang thực hiện và rao giảng . Những đặc trưng của nền văn minh phương tây bị người Hồi giáo coi như là xấu xa từ cốt tuỷ , cho nên kẻ nào xiển dương hoặc chấp nhận đều bị coi như là"kẻ thù của thượng đế” .
Nhóm từ này , vốn đựơc các nhà lãnh đạo Iran tuyên bố lập đi lập lại thường xuyên , trong các biên bản toà án và cả trong các tuyên ngôn chính trị , đối với một người hiện đại ngoài cuộc phải nói là rất lạ lẫm , dù về mặt tôn giáo hoặc thế tục . Ý tưởng cho rằng Thượng đế có kẻ thù , và cần có sự giúp đỡ của con người để lật mặt và xử lý kẻ thù , quả là hơi khó nuốt . Tuy nhiên , điều này chẳng hề trái ngược chút nào . Cái quan niệm về kẻ thù của Thượng đế đều thường gặp ở thời cổ đại cổ điển và tiền cổ điển , có trong Cựu ứơc , Tân ứơc cũng như trong kinh Qur’an.
Theo Hồi giáo , thì cuộc chiến giữa thiện và ác , ngay từ đầu , được xét trên bình diện chính trị và cả quân sự nữa. Ta nhớ rằng , Muhammad không những chỉ là 1 nhà tiên tri và người giảng đạo giống như các đấng lập đạo , ngài cũng là 1 chiến sĩ và là nhà cai trị . Vì thế , cuộc chiến của ngài liên quan đến 1 nhà nước và lực lượng quân đội . Trong cuộc chiến bảo vệ Hồi giáo- thánh chiến"theo con đừơng của Thượng đế vạch ra"- nếu các chiến sĩ chiến đấu cho Thượng đế , thì đối phương là kẻ chống lại Thượng đế. Và do Thượng đế trên nguyên tắc là đấng cai trị , người đứng đầu tối cao của nhà nước Hồi giáo , cùng với đấng Tiên tri và sau đấng Tiên tri là Caliph , với vai trò phó vương , thế thì Thượng đế sẽ là người cầm đầu quân đội . Quân đội là quân đội của Thượng đế và kẻ thù là kẻ thù của Thượng đế . Nhiệm vụ của những người lính của Thuợng đế là đưa kẻ thù của Thượng đế đến nơi cho để Người trừng trị càng nhanh càng tốt , tức là sau khi chết .
Vấn đề cốt lõi làm bận tâm các nhà làm chính trị phương Tây hiện nay chỉ là thế này : Có phải Hồi giáo , dù là theo phái chính thống hoặc phái khác , là 1 đe dọa cho phương tây ? . Đối với câu hỏi đơn giản này , có nhiều câu trả lời đơn giản , và do câu trả lời đơn giản , cho nên phần lớn đều lạc hướng . Theo ý kiến của 1 trừơng phái , thì sau khi Liên xô và phong trào cọng sản sụp đổ , Hồi giáo và chủ nghĩa chính thống Hồi giáo đã thay chỗ cho 2 chủ thể kia với tính cách là 1 mối đe dọa cho phương Tây và lối sống phương Tây . Theo ý kiến của 1 trường phái khác , thì người Hồi giáo , kể cả những người theo chủ nghĩa chính thống cấp tiến , về cơ bản , đều là những người tử tế , yêu hòa bình , ngoan đạo , một số trong nhóm này đã bị những sự việc tồi tệ mà phương tây đem đến cho họ , làm cho họ không thể chịu đựng được thêm . Chúng ta coi họ là kẻ thù bởi vì chúng ta cần có 1 kẻ thù về mặt tâm lý để thay thế cho Liên xô không còn tồn tại .
Cả 2 quan điểm đều có chứa sự thật ; cả 2 đều sai lầm cực kỳ nguy hiểm . Hồi giáo đúng ra không phải là kẻ thù của phương Tây , và ngày càng có nhiều người Hồi giáo ở nơi này nơi khác , không mong muốn gì khác hơn là có mối liên hệ gần gũi và thân thiện với phương Tây và xây dựng đựơc những định chế dân chủ tại nước của họ . Nhưng cũng có 1 số đáng kể tín đồ đạo Hồi - nhiều nhưng không phải tất cả những người theo phái chính thống – có thái độ thù nghịch và nguy hiểm , không phải vì chúng ta cần có 1 kẻ thù mà chính họ mới cần.
Trong những năm gần đây , có một số thay đổi về mặt nhận thức , và tiếp đến là chiến thuật giữa các người Hồi giáo . Một số vẫn coi phương tây nói chung và nước Mỹ đầu têu hiện nay là kẻ thù cố cựu và không khoan nhượng của đạo Hồi , là trở ngại đáng gờm đối với việc phục hồi niềm tin và luật pháp của Thượng đế ở trong nước và chiến thắng cúôi cùng của đạo Hồi trên tòan thế giới. Đối với nhóm này , không có con đường nào ngoài chiến tranh quyết tử , để hòan thành những điều mà họ coi là mệnh lệnh của đức tin. Cũng có những người khác , vẫn là tín đồ tận tụy và cũng biết rõ về các khuyết tật của xã hội phương Tây hiện đại , tuy nhiên cũng thấy đựơc những đóng góp của phương Tây – như tinh thần tìm tòi học hỏi là nguồn gốc của khoa học và kỹ thuật hiện đại ; sự quan tâm về vấn đề tự do dẫn đến chính quyền dân chủ hiện đại . Những người này , trong khi vẫn giữ đức tin và văn hóa của mình , lại cùng chúng ta cố tìm cách đi đến 1 thế gíơi tự do và tươi sáng hơn . Lại cũng có những người , trong khi vẫn coi phương tây là kẻ thù lớn nhất và là nơi sinh ra mọi điều xấu xa , tuy nhiên cũng ý thức đựơc sức mạnh của phương tây cho nên cố tìm một sự thích nghi tạm thời để có thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến cuối cùng . Chúng ta đừng nên lẫn lộn giữa nhóm thứ 2 với nhóm thứ 3.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét