Chương 2
Nhà chiến tranh
Trong súôt lịch sử nhân loại , có nhiều nền văn minh xuất hiện rồi lụi tàn – Trung quốc , Ấn độ , La mã , và trước đó là nền văn minh cổ đại ở Trung đông . Trong những thế kỷ mà lịch sử châu Âu gọi là thời trung cổ , thì nền văn minh tiến bộ nhất trên thế giới chắc hẳn là văn minh Hồi giáo . Hồi giáo có thể ngang bằng - hoặc thậm chí trên một số lãnh vực , vượt xa- Ấn độ và Trung quốc , nhưng cả 2 nền văn minh này chủ yếu chỉ khu trú tại 1 vùng và trong 1 nhóm dân tộc , cho nên tác động đối với phần còn lại của thế giới vì thế cũng bị giới hạn . Ngược lại , nền văn minh Hồi giáo , lại có tầm nhìn tòan thế giới , và ước vọng cũng rõ ràng như thế .
Một trong những nhiệm vụ chính mà đấng Tiến tri giao cho tín đồ Hồi giáo phải làm là thánh chiến ( jihad) . Chữ này đi từ gốc Ả -rập j-b-d với nghĩa chính là cố gắng hoặc phấn đấu . Trong các văn bản cổ điển , nó đựơc dùng sát với nghĩa đấu tranh , và từ đó cũng có nghĩa là chiến đấu . Chữ này thường đựơc nêu trong câu" phấn đấu theo con đường của Thượng đế” trong kinh Qur’an ( IX,24, LX,1 và v.v… ) và đựơc diễn giải theo nhiều cách có nghĩa là sự phấn đấu về đạo đức hoặc chiến đấu bằng vũ lực . Cũng dễ hiểu là chữ này có ý nghĩa gì tùy theo tình huống mà người ta cố ý gán ý nghĩa cho nó. Trong kinh Qur’an , từ này xuất hiện nhiều lần , với 2 ý nghĩa phân biệt nhưng có liên quan với nhau như trên . Trong những chương đầu , viết trong giai đoạn ở Mecca , khi đấng Tiên tri còn là thủ lãnh của 1 nhóm nhỏ cố chống lại nhóm đa số cầm quyền , thì từ này thường có ý nghĩa là sự phấn đấu đạo đức , theo kiến giải của một số học giả hiện nay . Trong những chương sau , đựơc truyền bá tại Medina , là nơi mà đấng Tiên tri lãnh đạo một nhà nước và chủ huy quân đội , thì từ này lại có ý nghĩa thực tiển rõ rệt hơn . Trong số đó thì ý nghĩa quân sự là thẳng thừng nhất . Lấy 1 ví dụ để làm rõ : "Những tín đồ nào ở nhà , nếu không bị đau ốm , thì không sánh đựơc với những người đem tài sản và bản thân tham gia chiến đấu theo con đường của Thượng đế . Thượng đế đặt để những ai đem tài sản và thân mình tham gia chiến đấu cao hơn những ai ngồi ở nhà . Thượng đế hứa sẽ thưởng cho tất cả những ai tin nhưng Ngài ưu ái hậu thưởng những người đi chiến đấu , trên những người ở nhà . Những tình cảm tương tự cũng gặp trong các chương VIII,72; IX,41,81,88 ; LXXVI,9 và v.v…
Một số người Hồi giáo hiện đại , nhất là khi giao tiếp với thế giới bên ngoài , giải thích nhiệm vụ của jihad theo nghĩa tinh thần và đạo đức . Đại đa số những người có thẩm quyền của Hồi giáo vào giai đoạn đầu , lại giải thích jihad theo những thuật ngữ quân sự bằng cách trích dẫn các đoạn liên quan trong kinh Qur’an , với những lời bình , và các truyền khẩu của đấng Tiên tri . Luật Hồi giáo cho phép tiến hành chiến tranh chống lại 4 loại kẻ thù : kẻ vô đạo , kẻ bỏ đạo , quân phiến loạn và kẻ cứơp . Mặc dù tất cả 4 loại chiến tranh trên hợp pháp , nhưng chỉ có 2 loại đầu mới đụơc coi là jihad. Như vậy jihad là 1 nghĩa vụ tôn giáo . Khi bàn về nghĩa vụ của 1 thánh chiến , các luận sư ( jurist) Hồi giáo cổ điển phân biệt giữa chiến tranh tấn công và bảo vệ . Trong chiến tranh tấn công , jihad là 1 nghĩa vụ cho toàn thể mọi tín đồ Hồi giáo nói chung , và như thế có thể chỉ do những người tình nguyện và chuyên nghiệp đảm trách . Trong chiến tranh phòng vệ , đó là 1 nghĩa vụ cho mọi người còn khoẻ mạnh . Chính Usama bin Ladin dựa vào điểm này để kêu gọi chiến tranh chống lại nước Mỹ .
Hầu như trong lịch sử Hồi giáo đựơc ghi chép qua 14 thế kỷ , jihad thường đựơc diễn giải là cuộc chiến đấu vũ trang để bảo vệ hoặc tiến công của quyền lực Hồi giáo . Theo truyền thống Hồi giáo , thế giới được chia ra làm 2 nhà : Nhà của người Hồigiáo ( Dar al- Islam) , là nơi có chính quyền và luật pháp Hòi giáo cai trị , và Nhà của chiến tranh ( Dar al – Harb) , là phần còn lại của thế giới , là nơi sinh sống và quan trọng hơn , là đựơc cai trị bởi những kẻ vô đạo. Đây là cơ sở để nói rằng jihad vẫn còn tiếp tục , chỉ bị gián đoạn bởi những đợt hưu chiến , cho tới khi toàn bộ thế giới hoặc chấp nhận đức tin Hồi giáo hoặc chịu sự cai trị của Hồigiáo . Những ai chiến đấu cho jihad sẽ được tưởng thửong ở cả 2 thế giới - chiến lợi phẩm ở đời này , và kiếp sau sẽ lên Thiên đàng .
Ở đây cũng giống như trong nhiều vấn đề khác , những lời dạy trong Qur’an đựơc giải thích cặn kẻ hơn trong các hadith , tức là những truyền thống liên quan đến lời nói và việc làm của đấng Tiên tri . Nhiều hadith đề cập tới thánh chiến . Dưới đây chỉ nêu vài ví dụ :
Jihad là nhiệm vụ do thủ lãnh giao cho ngươi , dù ông ta thánh thiện hay độc ác .
Một ngày , một đêm chiến đấu ngoài biên ải còn có giá trị cao hơn 1 tháng nhịn ăn và cầu nguyện
Đối với kẻ tử vì đạo , vết cắn của con kiến còn đau hơn là nhát kiếm đâm , nhát đâm đối với anh ta còn dễ chịu hơn là dòng nước mát ngọt ngào trong ngày hè nóng bức .
Cái chết của kẻ không qua trận mạc chỉ là cái chết của kẻ vô đạo .
Thượng đế đẹp lòng khi có chiến tù ( những kẻ bị Hồi giáo chinh phục ) bị lôi lên Thiên đàng trong xiềng xích .
Hãy học cách bắn cung , bởi vì khỏang cách giữa đích bắn và người bắn cung chỉ bằng chiều rộng của một trong những khu vườn trên Thiên đàng
Thiên đàng nằm dưới bóng lưỡi gươm .
Truyền thống cũng đưa ra một số qui luật về chiến tranh khi tiến hành jihad :
Nên đối xử tốt với tù binh
Việc cướp bóc là điều xấu xa kinh tởm
Thượng đế cấm không cho giết phụ nữ và trẻ em
Người Hồi giáo tôn trọng các cam kết , miễn là những cam kết này hợp pháp .
Những văn bản pháp lý chuẩn về shari’a thường có 1 chương về jihad , theo nghĩa quân sự là 1 cuộc chiến qui ứơc chống lại kẻ vô đạo và bỏ đạo . Nhưng những văn bản này cũng cũng chỉ ra hành vi đúng và tôn trọng các qui luật chiến tranh đối với các vấn đề như khơi mào và chấm dứt các cuộc xung đột và các đối xử với thường dân và tù binh , đó là chưa nói đến các sứ giả ngọai giao .
Trong phần lớn lịch sử Hồi giáo được ghi chép , kể từ khi có Đấng Tiên tri trở về sau , từ jihad đựơc dùng chủ yếu theo nghĩa quân sự . Muhammad bắt đầu sứ mạng tiên tri tại quê nhà , Mecca , nhưng do đám cầm quyền ngọai đạo cai trị thành phố truy bức cho nên ngài và các giáo đồ dời sang Medina , nơi đây các bộ lạc bản địa chào đón họ và đưa đấng tiên tri lên vị trí nhà hòa giải , sau đó là thủ lãnh . Chuyến di hành này theo tiếng Ả -rập là Hijra , đôi khi bị gọi trệch đi thành Hegira và dịch sai thành"sự tháo chạy". Kỷ nguyên Hồi giáo lấy Hijra làm mốc tính bắt đầu năm Ả -rập . Jihad đầu tiên do chính đấng Tiên tri ra tay chống lại các nhà cầm quyền tại sinh quán của ngài và kết thúc bằng việc chinh phục Mecca vào tháng chay Ramadan vào năm thứ 8 sau Hijra , tương ứng với tháng giêng năm 630 Tây lịch . Giới lãnh đạo Mecca đầu hàng mà không hề chống cự , và người ở Mecca , trừ những ai xúc phạm đến Đấng tiên tri hoặc 1 người Hồi giáo , đều được bảo đảm an tòan sinh mạng và tài sản , miễn là họ ứng xử phù hợp với các cam kết. Nhiệm vụ tiếp theo là nới rộng quyền lực Hồi giáo đến các vùng khác thuộc bán đảo Ả -rập , và đến phần còn lại của thế giới , do các Calip là những người kế tục của đấng Tiên tri .
Trong những năm đầu của kỷ nguyên Hồi giáo , điều này dường như khả dĩ , có khả năng thưc hiện đựơc . Chỉ trong 1 thời gian ngắn , các đội quân bách thắng đã xóa sổ đế quốc Ba tư cổ đại và sáp nhập tất cả lãnh thổ của đế quốc này vào cương thổ dưới quyền Caliph, mở lối xâm lăng vào Trung Á và Ấn độ . Về phía tây , Đế quốc Byzantine tuy chưa bị đánh bại , nhưng phần lãnh thổ lớn cũng đã bị tước mất . Rồi các tỉnh theo Cơ đốc giáo tại Syria ,Palestine, Ai cập và Bắc Phi cũng bị thu tóm và sau đó trở thành các địa phương bị Hồi giáo hóa và Ả -rập hóa và đây là bàn đạp để tiến công sâu hơn vào châu Âu , chinh phục Tây ban nha , và Bồ đào nha và phần lớn miền nam nước Ý . Vào đầu thế kỷ thứ 8 , đội quân Ả -rập còn vựơt qua cả dãy Pyrenées để sang nước Pháp .
Sau nhiều thế kỷ dừơng như lúc nào cũng chiến thắng , jihad của người Ả -rập cuối cùng bị châu Âu Cơ đốc giáo chặn đứng và đẩy lùi về phía đông , người Byzantines giữ vững thành phố Constantinople theo Cơ đốc giáo , đẩy lùi nhiều lọat tấn công của người Ả -rập . Về phía tây , người Cơ đốc giáo bắt đầu 1 tiến trình dai dẵng , dài hơi mà trong lịch sử Tây ban nha gọi là Reconquista , hoặc là Cuộc tái chinh phục , dần dần hất cẳng người Hồi giáo ra khỏi những lãnh thổ bị chiếm ở Ý và bán đảo Iberia. Họ cũng cố thử đưa công cuộc tái chinh phục sang miền Trung đông , và nhằm lấy lại đất Chúa , đã bị người Hồi giáo chiếm hồi thế kỷ thứ 7 . Cố gắng này đựơc gọi là Thập tự chinh đã bị thất bại hòan tòan và các Thập tự binh đã tháo lui trong hỗn lọan .
Nhưng jihad không dừng ở đó . Một giai đoạn mới lại mở màn , lần này không phải do người Ả -rập mà do những kẻ tân tòng , đó là người Thổ và người Tatar. Họ chiếm lấy vùng Anatolia vốn của người Cơ đốc giáo , và vào tháng 5/1453 họ chiếm lấy Constantinople , đô thị này từ đó trở về sau trở thành kinh đô của các sultan đế quốc Ottoman , là những người kế nghiệp các Caliph lãnh đạo các jihad . Các Ottoman tại bán đảo Balkan và những người Tatar cải đạo Hồi tại Nga quay lại cố chinh phục châu Âu , lần này đi từ hướng đông , và có lúc dường như cầm chắc phần thắng .
Nhưng một lần nữa châu Âu Cơ đốc giáo lại đủ sức trục xuất các kẻ xâm lược và lần này lại thành công hơn , chống lại đựơc thế lực Hồi giáo . Vào lúc này jihad đã hầu như chuyển sang thế phòng vệ - , chống lại cuộc tái chinh phục tại Tây ban nha và tại Nga , chống chọi với các phong trào tự giải phóng dân tộc của các thần dân Cơ đốc giáo trong đế quốc Ottoman , và cuối cùng là , như người Hồi giáo nhìn nhận , là để bảo vệ ngay chính trung tâm Hồi giáo khỏi những cuộc tấn công của kẻ vô đạo . Giai đọan này được gọi là chủ nghĩa đế quốc .
Ngay cả trong giai đoạn thoái lui này , hình thức tấn công của thánh chiến jihad cũng không hề bị từ bỏ . Cho mãi đến 1896 , người Afghan xâm lăng vùng Hindu Kush đầy núi non hiện nay là vùng đông bắc Afghanistan . Cho tới thời điểm đó , dân cư ở đây không phải là người Hồi giáo , và vì thế vùng đất này đối với người Hồi giáo là Kafiristan , tức là"đất của những người không tín ngưỡng". Sau khi bị người Afgan chinh phục , vùng đất này đựơc đặt tên lại là Nuristan"vùng đất của ánh sáng". Trong cùng thời gian , jihad dưới nhiều hình thức đã đựơc tiến hành tại châu Phi để chống lại những người không theo Hồi giáo . Nhưng trong phần lớn các trừơng hợp , quan niệm , thực hành và kinh nghiệm của jihad trong thế giới Hồi giáo hiện đại chủ yếu mang tính tự vệ .
Từ này đựơc sử dụng nhiều trong quân sự còn tiếp tục đến các thời kỳ cận đại gần đây . Trong đế quốc Ottoman , thành phố Belgrade , một tiền đồn trong cuộc chiến chó6ng lại người Áo , đựơc đặt cho một cái tên có vần điệu là Dar al –Jihad ( Nhà của Jihad) . Vào đầu thế kỷ 19 , khi Muhammad ‘Ali Pasha , nhà lãnh đạo chủ trương canh tân của Ai cập , tiến hành cải cách và quản lý quân đội theo kiểu Anh và Pháp , đã đặt ra "1 bộ chiến tranh" để điều hành quân đồi . Theo tiếng Ả -rập thì bộ này có tên là Bộ các vấn đề thánh chiến ( Diwan al –Jihadiyya) và đứng đầu là Quan giám sát các vấn đề thánh chiến ( Nazir al –Jihadiyya) . Cũng có thể nêu ra một số vi dụ khác cho thấy từ jihad không còn ý nghĩa thánh thần nữa mà chỉ còn giữ hàm ý quân sự . Vào thời cận đại người ta sử dụng lại cả 2 ý nghĩa quân sự và đạo đức , nhưng cách hiểu lại khác nhau và mỗi người áp dụng mỗi cách . Các tổ chức lớn tiếng xưng danh Jihad hiện nay , tại Kashmir , Chechnya ,Palestine và những chỗ khác rõ ràng là không hề sử dụng tử này theo nghĩa phấn đấu về mặt đạo đức .
Đôi khi Jihad được xem như là Thập tự chính của Hồi giáo, và 2 hình thức này được coi như ít nhiều tương đương với nhau . Trong một chừng mực nào đó , điều này đúng - cả 2 đều được công bố và phát động dưới dạng thánh chiến của đức tin chân chính chống lại kẻ thù vô đạo . Nhưng ở đây có sự khác biệt . Thập tự chinh là 1 hình thức phát triển mới trong lịch sử Cơ đốc giáo và trong một chừng mực là một sự tách rời căn bản ( radical ) ra khỏi những giá trị Cơ đốc giáo cơ bản được rao giảng trong Thánh kinh . Thế giới Cơ đốc giáo luôn bị tấn công từ thế kỷ thứ 7 , và đã bị người Hồi chiếm nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn ; quan niệm về 1 cuộc chiến thần thánh ,hoặc thông thường hơn , là 1 cuộc chiến có chính nghĩa cũng đã có từ xa xưa . Tuy nhiên trong cuộc chiến dai dẳng giữa đạo Hồi và đạo Cơ đốc , thì thập tự chinh chỉ mới gần đây , qui mô hạn chế và thời gian xảy ra tương đối ngắn . Jihad xuất hiện từ lúc có lịch sử đạo Hồi - trong kinh sách , trong cuộc đời của đấng Tiên tri , và trong hành động của các giáo đồ cũng như những người kế tục sau ngài . Jihad đã liên tục hiện diện trong lịch sử đạo Hồi và vẫn còn giữ nguyên tính cách cho đến ngày nay . Dĩ nhiên là từ thập tự chinh đi từ gốc là thập ác và nguyên uỷ chỉ dành cho cuộc thánh chiến đối với người theo đạo Cơ đốc . Nhưng trong thế giới Cơ đốc giáo ý nghĩa này đã mất từ lâu và ngày nay thường được dùng với nghĩa là 1 nỗ lực đạo đức dành cho 1 thiện ý . Ta có thể phát động 1 cuộc thập tự chinh vì môi trừơng , vì nước sạch , vì các dịch vụ xã hội tốt hơn , vì nữ quyền và cho nhiều ý đồ khác . Điểm chính là ngày nay từ thập tự chinh không đựơc dùng đúng theo ý nghĩa tôn giáo ban đầu . Jihad cũng được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau , nhưng không giống như từ thập tự chinh, nó vẫn giữ được ý nghĩa gốc ban đầu .
Những ai bị giết trong Jihad được gọi là tử vì đạo ( martyr) , theo tiếng Ả -rập và các ngôn ngữ Hồi giáo khác là shahid . Tiếng Anh martyr đi từ tiếng Hi lạp martys có nghĩa là" nhân chứng"và theo tập quán Cơ đốc - Do thái dùng để chỉ những ai sẳn sàng chịu tra tấn và chết thay vì từ bỏ đức tin . Như vậy hành động tử vì đạo của người này là 1 sự chứng kiến hoặc sự chứng thực đối với đức tin đó , và sẳn lòng chịu chết vì đức tin này . Trong tiếng Ả -rập , shahid cũng có ý nghĩa" chứng kiến"và thường đựơc dịch thành"martyr” , nhưng từ này lại có 1 hàm ý khá khác biệt . Theo thông lệ đạo Hồi , thì từ tử vì đạo ( martyrdom) thường để chỉ cái chết vì jihad và phần thưởng được sung sứơng bất diệt trên thiên đàng , được mô tả chi tiết trong những kinh sách tôn giáo sơ kỳ . Ngược lại , tự sát , là 1 trọng tội và đời đời bị nguyền rũa ngay đối với những người đáng lẽ được lên thiên đàng . Các luật gia cổ điển phân biệt rất rõ giữa cái chết do kẻ thù gây ra và cái chết do tự tử . Chết do kẻ thù giết sẽ lên trời , còn tự tử sẽ xuống địa ngục . Một số luật gia phe chính thống gần đây cùng một số người khác đã cố ý đánh đồng và thậm chí bỏ qua sự khác biệt này , nhưng quan điểm của họ không hề đựơc chấp nhận rộng rãi . Kẻ đánh bom liều chết như thế đã vi phạm đáng kể vào điều cốt lõi về mặt thần học .
Vì lẽ thánh chiến là 1 nghĩa vụ đối với đức tin , cho nên được qui định cặn kẻ trong shari’a . Các chiến binh jihad không được giết phụ nữ , trẻ em và người già nếu không bị tấn công trước , không đựơc hành hạ tra tấn tù nhân , không được tấn công mà không báo trước sau hưu chiến và phải tôn trọng các cam kết. Các luật gia và thần học thời trung cổ đã thảo luận khá nhiều về các qui luật chiến tranh , có cả những vấn đề như vũ khí nào được phép và không đựơc phép sử dụng . Thậm chí trong các văn bản thời trung cổ lại bàn đến tính hợp lệ của chiến tranh hoả tiển và hoá học , hoả tiển tức là các máy bắn đá (mangonel) và máy lăng đá ( catapult) , còn hoá học là tên có tẩm thúôc độc và bỏ thuốc độc vào các nguồn nước uống của kẻ thù . Về những điểm này có sự sai biệt đáng kể . Các luật gia , có người cho phép , có người hạn chế , có người không nhất trí về việc sử dụng những vũ khí này . Lý do đưa ra là những vũ khí trên gây ra số thương vong bừa bãi . Trong các kinh sách chính Hồi giáo không có đoạn nào cho phép khủng bố và ám sát . Trong kinh sách thậm chí không có điểm nào - theo tôi biết cho đến nay ( tác giả- BL ) - bàn tới việc tàn sát bừa bãi những người vô tội .
Các luật gia cũng nhấn mạnh là chiến lợi phẩm phải đựơc coi là 1 nguồn lợi phụ , không phải là mục tiêu chính . Một số người còn đi xa hơn nữa khi cho rằng nếu coi chiến lợi phẩm là mục đích chính thì sẽ làm giảm ý nghĩa và tước đi những lợi ích do Jihad mang lại hoặc trước mắt hoặc về sau này .Jihad , nếu muốn hợp lệ , phải được tiến hành"theo con đường của Thượng đế" , và không đựơc vì quyền lợi vật chất .Tuy nhiên , có nhiều tiếng than phiền về việc sử dụng từ Jihad đáng tôn kính cho những mục đích đáng hỗ thẹn . Đặc biệt là các luật gia người Phi phàn nàn về việc các tay buôn nô lệ sử dụng từ Jihad để biện minh cho sự cướp bóc và đòi quyền làm chủ nô đối với các nạn nhân . Luật thánh đòi hỏi phải đối xử tốt với những người không tham gia chiến đấu nhưng lại cho phép kẻ chiến thắng nhiều quyền rộng rãi đối với tài sản và cả đối với nhân thân và gia đình của kẻ chiến bại .Theo những tập tục chung thời cổ đại , kẻ thù bị bắt trong chiến trận và cùng với gia đình sẽ trở thành nô lệ , người chiến thắng có thể đem bán hoặc giữ lại để sử dụng . Hồi giáo thay đổi luật này chút ít bằng cách hạn chế quyền bắt làm nô lệ này đối với những ai bị bắt trong jihad nhưng đối với các hình thức chiến tranh khác thì không có .
Các luật lệ chiến tranh đối với kẻ bội giáo có phần nào khác và nghiêm khắc hơn đối với các luật về chiến tranh đối với kẻ vô đạo . Kẻ bội giáo dứơi mắt người Hồi giáo còn tệ hơn là kẻ vô đạo . Kẻ vô đạo là người chưa từng thấy đựơc ánh sáng , và luôn hy vọng rằng một ngày nào đó họ sẽ nhìn thấy . Chừng nào mà họ còn tuân thủ một số điều kiện , thì họ vẫn còn nhận đựơc sự khoan dung của nhà nước Hồi giáo và cho phép họ tiếp tục giữ đạo , thậm chí việc tuân thủ các luật lệ tôn giáo của mình . Kẻ bội giáo là người đã biết đựơc đức tin chân chính , dù là ngắn ngủi , rồi lại từ bỏ . Tội này con người không thể tha thứ được , và theo đại đa số các luật gia , kẻ phản bội phải chết - nếu là đàn ông . Đối với đàn bà , do trách nhiệm đựoc coi là ít hơn , chỉ cần đánh roi và bỏ tù là đủ . Thượng đế nhân từ có thể tha thứ cho kẻ phản bội vào kiếp sau , nếu Ngài muốn . Còn con người thì không có thẩm quyền như thế . Sự phân biệt này hiện nay có phần quan trọng , khi các nhà lãnh đạo hiếu chiến kêu gọi 1 jihad 2 mặt - chống lại kẻ vô đạo bên ngoài và chống lại kẻ bội giáo bên trong . Phần lớn , nếu không phải là tất cả các nhà lãnh đạo Hồi giáo mà phương Tây chúng ta coi như là bạn và đồng minh thì lại bị đa số dân chúng của họ coi như là kẻ phản bội , và tệ hơn nữa là kẻ bội giáo.
Từ thời xa xưa , có sự phân biệt về luật pháp giữa những lãnh thổ chiếm đựơc bằng vũ lực ( tiếng Ả -rập là ‘anwatan, tương đương với vi et armis của các luật gia La mã ) và sulban những lãnh thổ có đựơc qua hình thức hưu chiến hoặc đầu hàng hoà bình . Qui định về của cải cướp được , và khái quát hơn , là cách đối xử với dân chúng tại các vùng đất mới chiếm có khác nhau ở nhiều mặt . Theo truyền thống , sự khác biệt đựơc hình tượng hoá tại nhà thờ vào mỗi ngày thứ 6 . Tại các vùng đất chiếm được , anwatan , giáo sĩ mang 1 cây gươm , tại vùng đất qui phục sulban , giáo sĩ cầm 1 cây gậy gỗ . Hình ảnh lưỡi gươm vẫn còn đóng vai trò quan trọng . Cho tới ngày nay, quốc kì của Arabia Saudi có 2 biểu hiện trên nền xanh lá cây . Một là dòng chữ Ả -rập nêu rõ niềm tin Hồi giáo" Thượng đế chỉ có 1 , Muhammad là Tiên tri của Người". Biểu tượng kia hình ảnh cây gươm không lẫn vào đâu đựơc .
Có một số thời kỳ , các luật gia thừa nhận 1 tình trạng trung gian giữa nhà Chiến tranh và Nhà của Islam , đó là nhà Hưu chiến ( Dar al-Sulh) hoặc Nhà của giao ứơc ( Dar al-‘Ahd) . Nhà này bao gồm những quốc gia không theo Hồi giáo , thường là Cơ đốc giáo , khi các lãnh đạo những nơi này có ký kết với các nhà lãnh đạo Islam để nộp thuế hoặc cống vật , coi như là tương đương với jizya hoặc thuế thân để được phép tự chủ đối với các vấn đề nội trị . Ví dụ đầu tiên là cam kết giữa Caliph Umayyad ký vào thế kỷ thứ 7 với các ông hoàng theo đạo Cơ đốc tại Armenia . Ví dụ cổ điển của Nhà Hưu chiến là hiệp nghị cam kết vào năm 652 với các nhà cai trị Cơ đốc tại xứ Nubia , theo đó xứ này không phải nộp thuế thân , nhưng hàng năm phải tiến cống một số nô lệ nhất định . Qua cách coi quà tặng như là 1 hình thức tiến cống , các nhà lãnh đạo Hồi giáo và các cố vấn pháp lý có thể điều chỉnh luật pháp xử lý nhiều mối quan hệ chính trị , quân sự và thương mại với các cường quốc không phải Hồi giáo. Phương thưc này không hẵn hoàn toàn biến mất .
………..
Ngay từ đầu , người Hồi giáo đã biết rằng có sự khác biệt giữa các dân tộc trong Nhà chiến tranh . Phần lớn các dân tộc này thờ nhiều thần và thờ ngẩu tượng , là người không hề gây nguy cơ nghiêm trọng nào đối với đạo Hồi và là đối tượng có khả năng cải đạo . Những dân tộc này chủ yếu sống ở châu Á và châu Phi . Ngoại lệ chính là các tín đồ Cơ đốc giáo , được người Hồi giáo thừa nhận là có 1 tôn giáo giống như họ , và như thế chính là kẻ kình địch số 1 trong việc thống trị thế giới - hoặc nói theo cách của họ , là sự giác ngộ thế giới ( enlightenment) .Đạo Cơ đốc và đạo Hồi là 2 nền văn minh đựơc xây dựng trên cơ sở tôn giáo cho nên xung đột với nhau không phải vì sự khác biệt mà chính do sự giống nhau .
Công trình Hồi giáo xưa nhất còn sót lại nằm ngoài bán đảo Ả -rập là Nhà thờ Đá tại Jerusalem , hoàn tất vào năm 691 hoặc 692 C.E. Công trình này được xây trên nền 1 đền thờ Do thái cổ , theo 1 phong cách riêng và nằm gần các nhà thờ Cơ đốc giáo như Mộ thánh và Nhà thờ Chúa lên trời , là 1 thông điệp rõ ràng cho người Do thái , và quan trọng hơn , người theo đạo Cơ đốc . Đó là: những mặc khải của họ , tuy rằng có lúc xác thực , nhưng sau đó bị những kẻ thủ tự thiếu tư cách làm hư hỏng đi cho nên được thay thế bằng sự mặc khải cuối cùng , toàn bích hơn nằm trong giáo lý Hồi giáo . Cũng như người Do thái bị người Cơ đốc khuất phục và thay thế , thì cái trật tự thế giới Cơ đốc ngày nay phải được thay thế bằng tín ngưỡng Hồi giáo và các Caliph đạo Hồi . Để nhấn mạnh điểm này , tại nhà thờ Đá có trích những dòng từ kinh Qur’an nêu rõ cái mà người Hồi giáo coi là sai lầm của đạo Cơ đốc" Vinh danh thay Thượng đế , không ai là con , là bạn của người"và"Người là Thượng đế , chỉ có một , đời đời . Người không sinh , không ai sinh ra Người và không ai sánh bằng Người"( Qur’an CXII) . Điều này quả là một sự thách đố đối với đạo Cơ đốc ngay tại nơi phát sinh . Một thiên niên kỷ sau việc đồn trú của lính Mỹ tại Arabia được nhiều tín đồ Hồi giáo và nhất là Usama bin Ladin coi như là 1 thách đố tương tự , lần này là đạo Cơ đốc đối với đạo Hồi .
Để làm rõ thêm sự thách thức đầu tiên này đối với đạo Cơ đốc , lần đầu tiên , vị Caliph cho đúc đồng vàng , mà từ trước đến nay chỉ có người La mã độc quyền . Điểm đáng nói là đồng tiền vàng Hồi giáo đầu tiên , đồng dinar , lại mượn từ chữ La mã denarius . Một số đồng tiền có tên vị Caliph , danh hiệu là Thống lãnh các tín đồ , và một số câu thơ đầy tính luận chiến . Thông điệp rất rõ ràng . Theo cách nghĩ của Hồi giáo , thì người Do thái, và sau đó là người Cơ đốc đã lầm lạc đi theo những tín điều giả dối . Vì thế , cả 2 đạo đều bị loại bỏ , và thay thế bằng đạo Hồi , là sự mặc khải cuối cùng và hoàn hảo của Thượng đế theo thứ tự . Những câu thơ trong kinh Qur’an được viết tại Nhà thờ Đá và trên các đồng tiền vàng qui tội cái mà theo người Hồi giáo là những điều sai lạc tệ hại nhất của đức tin chân thực . Dĩ nhiên còn có thêm một thông điệp nữa của Caliph gởi cho Hoàng đế Cơ đốc "Đức tin của ngươi đã bị băng hoại , ngươi đã hết thời rồi. Ta đây mới là người cai trị của đế quốc của Chúa trên trần gian này".
Thông điệp đựơc hiểu rõ , và Hoàng đế coi việc đúc tiền vàng như là lý do tuyên chiến ( casus belli) . Trong hơn một ngàn năm , cuộc chiến đựơc các Caliph Hồi giáo phát động từ nhiều kinh đô khác nhau ở Medina , Damascus , Baghdad, Cairo chống lại các Hoàng đế Cơ đốc giáo tại Constantinople , Vienna và các danh xưng khác sau này , tại các quốc gia phương tây xa xôi hơn. Mỗi vị vua , trong dời của mình , đều là đối tượng chính của Jihad.
Dĩ nhiên , trong thực tế , việc áp dụng học thuết về jihad không phải lúc nào cũng bạo lực hoặc khắc nghiệt . Tình trạng chiến tranh đúng theo qui tắc có thể tạm ngưng theo hình thức đựơc luật pháp qui định như hưu chiến , nhưng hưu chiến này lại khác ít nhiều với cái gọi là hiệp uớc hoà bình do các cường quốc phương Tây ký với nhau . Đó là những cuộc hưu chiến do Đấng Tiến tri ký với các kẻ thù vô thần của mình , và đã trở thành cơ sở cho những gì mà ta gọi là luật quốc tế của Hồi giáo . Theo Shari’a , phải có nhiệm vụ khoan dung đối với các tôn giáo đã có từ trước do mặc khải thần linh ( Qur’an II,256: Không được ép buộc trong tôn giáo") . Tại các vùng đất do Hồi giáo cai trị , luật Hồi giáo cho phép người Do thái và Cơ đốc được giữ đạo và quán xuyến công việc của mình , nhưng phải chịu một số bó buộc , quan trọng nhất là thuế thân đánh vào nam giới trưởng thành . Thuế này , được gọi là jizya , đựơc noi rõ trong Qur’an :IX,29 :” Hãy đánh lại những kẻ nào không tin vào Thượng đế hoặc không tin vào ngày phán xét , những kẻ nào không cấm những điều mà Thượng đế và các sứ đồ của Người đã tuyên bố cấm , những kẻ không theo tôn giáo của chân lý , dù rằng chúng có là dân có tên trong Sách thành ( tức làngười Do thái và Cơ đốc ) , cho tới khi chính bản thân chúng khúm núm chịu nộp thuế jizya". Những dòng sau đã được diễn giải theo nhiều cách khác nhau , về mặt văn chương cũng như trên thực tiển .
Những hạn chế khác như không được mặc quần áo hoặc dấu hiệu nổi bật , cấm không được mang vũ khí , cởi ngựa , mua nô lệ Hồi giáo hoặc xây nhà cao hơn nhà người Hồi giáo .Trừ 2 điều sau và thuế thân jizya , còn những cấm đáon trên không phải lúc nào cũng phải tuân thủ chặt chẽ . Bù lại , những thần dân không theo Hồi giáo trong 1 nhà nước Hồi giáo lại được hưởng quyền tự quản rất lớn khi xử lý những vấn đề thuộc nội bộ cọng đồng bao gồm giáo dục , đánh thuế và thực thi luật của riêng họ liên quan đến nhân thân , nhất là trong hôn nhân , li dị và thừa kế . Thoả ứơc hoặc hợp đồng giữa nhà nước Hồi giáo và 1 cọng đồng dân cư không - Hồi giáo đựoc gọi là dhimma , và người trong cọng đồng đựơc nhà nước Hồi giáo bao dung được gọi là dhimmi . Theo ngôn ngữ hiện đại , người Do thái và Cơ đốc trong 1 nhà nước Hồi giáo cổ điển là các công dân hạng hai, nhưng quyền của công dân hạng hai , đựơc xác định bởi luật pháp và mặc khải và đựơc công luận thừa nhận , lại còn tốt hơn nhiều so với việc hoàn toàn không có quyền công dân dành cho những người không theo Cơ đốc giáo và ngay cả đối với một số người Cơđốc lệch lạc tại phương Tây .
Jihad cũng cũng không ngăn cản các chính phủ Hồi giáo tìm kiếm đồng minh Cơ đốc để chống lại các kình địch là Hồi giáo khác , ngay cả trong thời gian xảy ra Thập tự chinh .
Chương III
Từ quân Thập tự chinh đến quân Đế quốc chủ nghĩa
Các cuộc Thập tự chinh hiển hiện rất rõ trong tâm thức và ngôn từ vùng Trng đông hiện đại , đối với cả những người theo chủ nghĩa quốc gia Ả -rập và tín đồ chính thống Hồi giáo , nhất là Usama bin Ladin . Nhưng không phải lúc nào cũng như vậy .
Việc các chiến binh Thập tự chinh chiếm đóng Jerusalem vào năm 1099 CE là 1 chiến thắng của đạo Cơ đốc , nhưng lại là 1 tai họa cho người Hồi giáo và cho cả người Do thái sống trong thành phố . Căn cứ theo tài liệu lịch sử thời kỳ này , thì việc chiếm đóng này không được quan tâm mấy trong khu vực . Những lời kêu cứu cầu viện của dân Hồi giáo bản địa không đựơc Damascus và Baghdad trả lời , và các lãnh địa mới do Thập tự chinh thành lập chẳng bao lâu lại chui vào cuộc đỏ đen chính trị của vùng đất mặt trời mọc ( Levantine ) , gồm các liên minh giữa các tôn giáo để giải quyết những tranh giành quyền lực giữa các ông hoàng đạo Hồi và Cơ đốc .
Cuộc chiến tranh chống Thập tự chinh cuối cùng đánh bại và đuổi được quân Thập tự chỉ xảy ra sau đó 1 thế kỷ . Nguyên do trực tiếp là các hoạt động cứơp bóc tràn lan của 1 lãnh tụ quân Thập tự , Reynald od Châtillon , người vây hãm pháo đài Kerak , hiện nay là nam Jordan , trong thời gian từ 1176 và 1187 CF , và từ đó tung ra 1 loạt các cuộc tấn công vào các thương đoàn Hồi giáo tại các vùng phụ cận , kể cả Hijaz . Các sử gia chuyên về Thập tự chinh có lẽ đã đúng khi nói rằng động cơ của Reynald chủ yếu là kinh tế , nói cách khác , là ý đồ cướp bóc. Nhưng người đạo Hồi lại cho rằng những chiến dịch của ông ta có tính khiêu khích và thách thức nhằm tấn công các vùng đất thánh của đạo Hồi . Vào năm 1182 , bằng cách vi phạm cam kết giữa vua của quân Thập tự tại Jerusalem và vua Hồi giáo là Saladin , Reynald đã tấn công và đánh cướp các thương đoàn Hồi giáo , kể cả 1 đoàn hành hương đi Mecca. Lại càng xấc xược hơn theo quan điểm đạo Hồi , khi ông ta đe doạ Arabia , nhất là cuộc hành quân cứơp bóc tại Biển Đỏ , khi tấn công vào các thuyền bè Hồi giáo và tại các cảng Hijaz phục vụ cho Medina và Mecca . Chính do những biến cố này dẫn tới việc Saladin đích thân tuyên bố Jihad chống lại quân Thập tự chinh – đây là một minh chứng hùng hồn về vai trò trung tâm của bán đảo Arabia trong nhận thức của người theo đạo Hồi .
Những chiến thằng do Saladin đạt được và sau đó chiếm lại đựơc Jerusalem từ quân Thập tự chinh năm 1187 từ đó cho đến ngày nay luôn là nguồn hứng khởi đối với các nhà lãnh đạo Ả -rập. Saddam Hussein thường nhắc đến 2 nhà lãnh đạo xa xưa trong lịch sử Iraq mà ông ta coi như người đi trước làm gương cho mình- đó là Saladin đã chấm dứt được mối đe đọa phương tây thời đó khi đánh bại và hất cẳng quân Thập tự , và Nebuchadnezzar , người đã giải quyết chóng vánh và dứt điểm các vấn đề thuộc chủ nghĩa Zion . Vào ngày 8 tháng 10 năm 2002 , thủ tướng Pháp , Jean-Pierre Raffarin , trong 1 diễn văn tại Quốc hội Pháp , đã cho biết bằng cách nào mà Saladin "có thể đánh bại đựơc quân Thập tự và giải phóng Jerusalem". Việc sử dụng từ"giải phóng"một cách thú vị này của 1 Thủ tứơng Pháp để mô tả việc Saladin chiếm đựơc Jerusalem từ quân Thập tự có thể coi như là sự phản ánh tình trạng dàn trận hiện nay , hoặc nói cách khác , đó là 1 trừơng hợp ăn nói đúng về mặt chính trị một cách quá đáng . Ở những nước khác thì cách xếp đặt này có thể coi như là do dốt nát về lịch sử , nhưng đối với nước Pháp , điều này chắc chắn là không phải như thế .
Ngay cả tại châu Âu Cơ đốc giáo , Saladin cũng đựơc tán dương và ca tụng vì đã đối xử rộng rãi và hào hiệp đối với các kẻ thù bại trận . Tuy nhiên , Roger of Chatillon không được hưởng sự rộng rại này . Sử gia Ả -rập vĩ đại Ibn al-Athir đã giải thích tình huống này như sau:"Saladin nói , ta đã 2 lần thề sẽ giết hắn nếu tận tay bắt đựơc ; một lần khi hắn cả gan dẫn quân đến Mecca và Medina , và khi hắn đã quỉ quyệt tấn công thương đoàn trên đường đi đến Hijaz” . Sau chiến thắng vẻ vang , Saladin cho thả các ông hòang và tù truởng tham gia Thập tự chinh bị bắt , nhưng tách riêng Roger of Chatillon ra rồi tự tay Saladin giết và cắt đầu Roger.
Sau khi jihad thành công và chiếm lại Jerusalem , Saladin và các người kế tục dường như không còn quan tâm đến thành phố này nữa , và vào năm 1229 , họ nhường Jerusalem cho Hòang đế Frederick III cắn cứ theo cam kết thỏa thuận giữa nhà lãnh đạo Hồi giáo và các Thập tự binh. Thành phố này bị tái chiếm vào năm 1244 , khi các Thập tự binh cố biến đổi thành 1 thành phố hòan tòan Cơ đốc . Sau một thời gian dài ít được nhắc tới , đến thế kỷ 19 mới khơi dậy mối quan tâm về thành phố . trước tiên là những tranh chấp giữa các cuừơng quốc châu Âu về việc cai quản các nơi thiêng liêng của đạo Cơ đốc và sau đó là các đợt di dân Do thái mới .
Chính trong giai đoạn này , người Hồi giáo bắt đầu quan tâm đến những đợt Thập tự chinh , mà lúc mới xảy ra quả tình ít được lưu ý . Sử Ả -rập chép đầy đủ và phong phú về các chiến binh Thập tự , lúc họ đến , những chiến trận và các quốc gia mà họ thành lập nhưng lại không nêu được bản chất và mục đích cuộc phiêu lưu của những chiến binh này . Những từ ngữ Thập tự chinh và quân Thập tự thậm chí không hề có trong lịch sử Ả -rập vào thời ấy , mà bản thân các Thập tự quân chỉ được coi là những kẻ vô đạo , người Cơ đốc , hoặc thường gặp hơn , người Frank , là 1 từ chung cho người Châu Âu Cơ đốc - và sau này còn có Tin lành - theo Thiên chúa giáo , để phân biệt với những tín đồ Chính thống giáo và các đồng đạo phương đông của họ . Sự nhận biết các đợt Thập tự chinh như là một hiện tượng lịch sử riêng biệt chỉ mới có từ thế kỷ 19 và qua các bản dịch sách vở châu Âu về lịch sử . Kể từ đó , các đợt Thập tự chính đựơc ghi nhận như là hình mẫu sơ khai của sự bành trứơng chủ nghĩa đế quốc châu Âu vào thế giới Hồi giáo . Nếu mô tả chính xác hơn thì các đợt Thập tự chinh này chỉ là 1 sự chống trả lại jihad kéo dài nhiều năm , rất hạn hẹp và cuối cùng không đạt hiệu qủa gì . Các đợt Thập tự chinh kết thúc bằng thại , và sau đó tại các nước Hồi giáo chẳng còn mấy ai nhớ đến , nhưng các nổ lực của châu Âu gần đây nhằm chống trả và đảo ngược sự tiến công Hồi giáo vào lãnh thổ Cơ đốc giáo lại thành công nhiều hơn và mở đầu cho một loạt những thất bại đau đớn tại các vùng biên giới thế giới Hồi giáo .
Dưới sự cai trị của các Caliph Ả -rập thời trung cổ và một lần nữa , dứơi các triều đại Ba tư và Thổ nhĩ kỳ , đế quốc Hồi giáo là 1 vùng giàu có nhất , hùng mạnh nhất , sáng tạo nhất và khai sáng nhất trên thế giới , và trong súôt thời Trung cổ , thế giới Cơ đốc luôn luôn ở thế thủ . Vào thế kỷ 15 , người Cơ đốc mở rộng các cuộc phản công . Người Tatars bị hất ra khỏi nước Nga , người Moors ra khỏi nước Tây ban nha . Nhưng tại vùng đông nam châu Âu , nơi các sultan Ottoman đối đầu trước tiên với hoàng đế Byzantine và sau đó là Hoàng đế Lamã thần thánh , thế lực Hồi giáo còn thắng thế và các phản công nói ở trên chỉ là những bứơc lùi ở ngoài rìa và không đáng kể . Cho đến thế kỷ 17 , các pasha Thổ vẫn còn cai trị Budapest và Belgrade , quân đội Thổ còn đang bao vây Vienna , và bọn cứơp biển vẫn còn tấn công thuyền bè và các bờ biển đến tận nước Anh , Ái nhĩ lan và đôi khi , đến tận Madeira và Băng đảo . Bọn cướp biển này nhận đựơc nhiều sự giúp đỡ của người Âu , những người vì lý do này hay lý do khác , đã định cư tại Bắc Phi và chỉ cho họ cách đóng , lèo lái những con tàu vượt đại dương ở biển Bắc và thậm chí ở Đại tây dương . Giai đoạnnày kéo dài không lâu .
Thếrồi có sự thay đổi lớn . Lần bao vây thứ 2 thành Vienna của người Thổ , vào năm 1683 , đã thất bại hoàn toàn , dẫn đến 1 cuộc thoái lui thiếu suy nghĩ - một kinh nghiệm hoàn toàn mới đối với quân đội Ottoman . Sự thất bại này , lại xảy ra cho chính 1 thế lực quân sự hùng mạnh trong thế giới Hồi giáo , đã làm phát sinh một cuộc tranh luận mới , mà trongmột nghĩa nào đó cho đến bấy giờ vẫn còn tiếp tục. Bắt đầu trong tầng lớp ưu tú về quân sự , chính trị và sau đó là trí thức Ottoman tranh luận về 2 vấn đề : Tại sao những đội quân Ottoman bách thắng lại bị kẻ địch Cơ đốc đáng khinh kia đánh bại tan tác ? Và làm cách nào phục hồi được vị thế thống trị trước kia ?. Cólúc cuộc tranh luận đi từ tầng lớp ưu tú sang các thành phần khác , từ nước Thổ sang nhiều nước khác và các chủ đề càng lúc càng mở rộng .
Có nhiều lý do để lo ngại. Bị thất bại liên tiếp , trong khi đó các lực lượng châu Âu Cơ đốc , sau khi giải phóng đất đai của họ , lại tiếp tục truy đuổi những kẻ xâm lược trước kia cho đến tận nơi xuất phát ở châu Á và châu Phi . Ngay cả những nước nhỏ như Hoà lan và Bồ đào nha cũng tạo dựng được những đế quốc rộng lớn tại phương Đông và đóng vai trò nổi trội trong buôn bán . Vào năm 1593, Selaniki Mustafa Efendi , một viên chức Ottoman giữ nhiệm vụ ghi chép các biến cố xảy ra , ghi lại hình ảnh đến Istanbul của viên đại sứ nước Anh . Viên chức này không chú ý nhiều đến viên đại sứ , nhưng lại rất kinh ngạc khi nhìn thấy chiếc tàu chở viên đại sứ đến . Ông ta viết :" Một con tàu chưa thấy bao giờ cập bến Istanbul . Nó đã vựơt 3700 dặm trên biển và ngoài các khí giới khác , còn mang 83 khẩu súng lớn … Đúng là 1 kỳ quan của thời đại , chưa bao giờ thấy hoặc ghi nhận một chiếc nào tương tự .” Một sự ngạc nhiên khác đó là đấng quân vương đã gởi sứ giả đến"Người cCai trị đảo quốc Anh là 1 phụ nữ được thừa kế vương quyền … có đầy đủ quyền lực".
Một chi tiết kỷ hơn , không được nhà chépsử Ottoman nhắc đến , cũng có đối phần quan trọng . Vị Đại sứ nước Anh đang nói ở đây quả thật đựơc Nữ hoàng Elizabeth chính thức bổ nhiệm , nhưng lại không do chính quyền nước Anh mà do 1 công ty thương mãi tuyển chọn và trả lương – là 1 sự sắp xếp có ích vào thời điểm mà sự quan tâm chính của thế giới phương Tây đối với vùng Trung đông chỉ là việc kinh doanh . Thật vậy , chính sự mở mang kinh tế và kỹ thuật đầy sáng tạo và nhanh chóng của phương Tây - nào là các nhà máy , tàu chở hàng vượt đại dương , công ty cổ phần- đã mở màn cho 1 thời đại mới . Các con tàu châu Âu , được đóng để vựơt Đại tây dương , dĩ nhiên sẽ vượt hẳn những con tàu chỉ quanh quẩn trong vùng Địa trung hải , Biển Đỏ , và biển Ấn độ , trong chiến ranh và trong thương mại , và thương mại lại được củng cố thêm nhờ 2 thói quen của người phương tây – đó là hợp tác và cạnh tranh. Vào thế kỷ 18 , những sản phẩm truyền thống của vùng Trung đông như càphê và đường lại đựơc trồng tại các thuộc địa mới của phương Tây tại châu Á và châu Mỹ và được các lái buôn và công ty châu Âu đem xuất khẩu sang Trung đông . Ngay cả các khách hành hương Hồi giáo đi từ Đông nam Á và Nam Á sang những đô thị thần thánh tại bán đảo Ả -rập đôi khi cũng nhờ đến tàu châu Âu , bởi vì nhanh hơn , rẻ hơn , an toàn hơn và tiện nghi hơn .
Đối với phần với các sử gia Trung đông cũng như Tây phương , thì thời điểm khởi đầu theo qui ứơc của lịch sử hiện đại tại vùng Trung đông bắt đầu từ năm 1798 , khi cách mạng Pháp , qua hình ảnh của 1 viên tứơng trẻ tên là Napoleon Bonaparte đổ bộ lên đất Ai cập . Chỉ trong 1 thời gian khá ngắn , tứơng Bonaparte và đạo quân viễn chính nhỏ bé của mình đã chinh phục , chiếm đóng và cai trị đất nước này . Trước khi việc này xảy ra , đã từng có những đợt tấn công , thoái lui và mất mát đất đai tại những vùng biên thuỳ xa xôi , nơi người Thổ và người Ba tư đối đầu với nước Áo và nước Nga . Nhưng khi 1 lực lượng phương Tây nhỏ bé tấn công 1 trong những vùng trọng tâm của đạo Hồi quả là 1 cú sốc nặng nề . Sự tháo lui của quân Pháp , trong chừng mực thậm chí lại là 1 cú sốc lớn hơn . Quân Pháp bị buộc phải rời Ai cập không phải do người Ai cập , cũng không phải do người Thổ , nhưng lại do một đội quân nhỏ thuộc hải quân Hoàng gia Anh , dưới sự chỉ huy của 1 đô đốc trẻ tên là Horatio Nelson .Đây là một bài học cay đắng mà người Hồi giáo phải học : không những 1 cường quốc châu Âu có thể đến , xâm lăng , cai trị tuỳ ý rồi chỉ có 1 cường quốc chấu Âu mới đẩy họ đi mà thôi .
Chủ nghĩa đế quốc là 1 chủ đề đặc biệt quan trọng đối với Trung đông và đặc biệt hơn , là Hồi giáo chống lại phương Tây . Đối với họ , từ chủ nghĩa đế quốc có 1 ý nghĩa quan trọng . Lấy 1 ví dụ , người Hồi giáo không bao giờ dùng từ này để chỉ các đế quốc Hồi giáo - đế quốc đầu tiên do người Ả -rập dựng nên , những đế quốc sau do người Thổ , những người chinh phục nhiều vùng đất và dân cư rộng lớn , đem sáp nhập vào Nhà Hồi giáo . Theo người Hồi giáo thì thật là hoàn toàn chính đáng khi chinh phục và cai trị châu Âu và người Âu và như thế là giúp cho họ - nhưng không phải bó buộc - tiếp thu đức tin chân chính . Còn ngược lại là 1 trọng tội và là tội ác khi người Âu chinh phục và cai trị người theo đạo Hồi , và tệ hơn nữa là đưa họ vào con đường lầm lạc . Theo nhận thức Hồi giáo , thì sự trở lại đạo Hồi là 1 điều ích lợi cho người đựơc cải đạo và là 1 công đức đối với người giúp họ cải đạo . Theo luật Hồi giáo , từ đạo Hồi chuyển sang 1 đạo khác là phản đạo - đây là 1 tội vô cùng nghiêm trọng cho cả người bị lầm lạc và người làm cho người kia lầm lạc . Về vấn đề này , luật rất rõ ràng và dứt khoát . Nếu 1 người Hồi giáo từ bỏ đạo Hồi , ngay cả đối với một kẻ tân tòng quay trở lại đạo cũ , hình phạt là tội chết . Trong thời đại ngày nay , quan niệm và thực hiện takfir , tức là nhận biết và tố cáo hành vi phản đạo đã đựơc mở rộng rất nhiều . Không phải là hiếm khi các nhóm cực đoan và chính thống cho rằng rằng một số chính sách , hành động hoặc thậm chí chỉ là ý kiến của người rao giảng đạo Hồi cũng được coi là hành vi phản đạo , và án cho kẻ phạm tội là tử hình .Đây là nguyên tắc đựơc nêu trong fatwa đối với Salman Rushdie , việc ám sát Tổng thống Sadat và nhiều người khác .
Các hoạt động của người Âu tại các nước Hồi giáo trải qua nhiều giai đoạn . Giai đoạn đầu là sự bành trứơng thương mại và , theo cách nhìn của người đạo Hồi , đã bóc lột họ và đất nước của họ , trên 2 mặt thương trừơng cũng như nguồn nguyên liệu .Sau đó là những đợt xâm lăng và chinh phục bằng vũ lực , nhờ đó mà các cường quốc châu Âu mới xây dựng đựơc sự thống trị trên nhiều vùng đất quan trọng thuộc thế giới Hồi giáo- người Nga tại vùng Caucasus và vùng Transcaucasus và sau đó là vùng Trung Á ; người Anh tại Ấn độ , người Anh và người Hoà lan tại Malaysia và Indonesia , và giai đoạn chót là người Pháp và người Anh tại vùng Trung đông và Bắc phi. Tại những nơi này chủ nghĩa đế quốc đã cai trị trong nhiều thời kỳ dài ngắn khác nhau - tại một sô nơi trong hàng thế kỷ như tại Đông nam Á và Ấn độ ; ở nơi khác , như tại vùng đất người Ả -rập tại Trung đông , chỉ trong một thời gian tương đối ngắn.
Trong mỗi trừơng hợp , chủ nghĩa đế quốc đều để lại dấu ấn . Trong thế giới Ả -rập , thời kỳ cai trị của đế quốc Anh Pháp bắt đầu bằng sự đô hộ của người Pháp tại Algeria ( 1830) , người Anh tại Aden ( 1839 ) , tiếp tục với sự chiến đóng của người Anh tại Aicập ( 1882) , người Pháp mở rộng kiểm soát tại Tunisia ( 1881) và Morocco ( 1911) và ảnh hưởng của người Anh tại vùng vịnh Ba tư và cúôi cùng là sự phân chia các tỉnh thuộc đế quốc Ottoman Ả -rập tại vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu giữa 2 đế quốc Tây Âu chính . Lần này các lãnh thổ mới bị chiếm đóng không những chỉ sáp nhập đơn thuần , theo kiểu truyền thống , thành các thuộc địa hoặc vùng lệ thuộc . Các lãnh thổ này đựơc Hội quốc liên giao cho Anh và Pháp cai trị với nhiệm vụ rõ ràng là giúp cho họ tiến đến độc lập . Giai đoạn này rất ngắn , từ sau thế chiến thứ 1 đến sau thế chiến thứ 2 , khi quyền uỷ trị chấm dứt và các lãnh thổ bị ủy trị dành độc lập . Phần lớn bán đảo Ả -rập vẫn nằm ngoài tầm của đế quốc .
Tuy nhiên , tác động của chủ nghĩa đế quốc được coi là rất lớn , và dưới mắt của số đông dân cư trong khu vực , quả là cực kỳ độc hại . Tác động và sự thiệt hại chắc chắn là rất đáng kể , nhưng có lẽ ít đựơc quan tâm và không có tầm vóc như là các huyền thọai liên quan đến chủ nghĩa quốc từng được rêu rao . Dù sao thì chủ nghĩa đế quốc cũng đem lại một số lợi lộc – xây dựng hạ tầng , các dịch vụ công cọng , hệ thống giáo dục , cũng như một số thay đổi xã hội , nhất là sự xóa bỏ chế độ nô lệ và sự giảm bớt đáng kể tình trạng đa thê , tuy không lọai bỏ đựơc hòan tòan . Sự tương phản có thể nhận thấy rất rõ khi so sánh tình hình giữa những nước từng bị đế quốc đô hộ , như Ai cập và Algeria , với những nước vẫn còn giữ được độc lập , như Arabia và Afghanistan . Tại Arabia , các trừơng đại học hình thành muộn và cũng không nhiều . Hiện nay , với 1 dân số ứơc tính 21 triệu , chỉ có 8 trường đại học - tức là chỉ nhiều hơn 1 so với 7 cơ sở giáo dục đại học đựơc thành lập tại Palestine kể từ khi vùng đất này bị Israel chiếm đóng năm 1967 . Chế độ nô lệ đến năm 1962 mới được luật pháp bãi bỏ tại Arabia Saudi , và sự áp bực phụ nữ vẫn còn nguyên vẹn .
Nhưng chắc chắn cũng có những hậu qủa tiêu cực lớn của chủ nghĩa đế quốc và nói rộng ra là ảnh hưởng của phương tây hoặc châu Âu , thậm chí tại các quốc gia vẫn còn giữ đựơc sự độc lập chính trị , như tại Thổ nhĩ kỳ và Iran. Trong số những tác động canh tân hóa nổi bật là việc tăng cường quyền lực nhà nước thông qua việc củng cố bộ máy giám sát , đàn áp , và nhồi sọ , và cùng lúc làm suy yếu đi hoặc lọai trừ các thế lực trung gian làm hạn chế quyền lực của các nhà cai trị chuyên chế . Sự thay đổi về xã hội , và sự đổ vỡ các mối quan hệ và ràng buộc xã hội xưa cũ , đã đem lại nhiều mối nguy hại lớn cho xã hội và tạo ra những tương phản mới càng ngày càng rộng , mà các phương tiện truyền thông hiện đại lại càng làm rõ thêm nồn nột . Ngay từ năm 1832 , một quan sát viên sắc sảo người Anh , Aldophus Slade , vốn là 1sĩ quan hải quân trẻ đã nhận ra đựơc sự khác biệt giữa giới quí tộc cũ và giới quí tộc mới . Giới quí tộc cũ sống bằng tài sản . Giới quí tộc mới thì lấy nhà nước làm tài sản của họ . Điều này cho đến nay vẫn còn đúng tại phần lớn các vùng đất Hồi giáo .
Vào đầu thế kỷ 20 - mặc dù nền độc lập mong manh vẫn còn đựơc duy trì tại Thổ nhĩ kỳ và Iran và tại một số quốc gia xa xôi như Afghanistan , vào lúc đó việc xâm lăng cũng chẳng bỏ bèn gì – thì hầu như tòan bộ thế giới Hồi giáo đã đựơc sáp nhập vào 4 đế quốc châu Âu là Anh , Pháp , Nga và Hòa lan . Các chính quyền và phe nhóm Trung đông buộc phải học cách chọc cho các kẻ kình địch hùng mạnh kể trên quay lại chống nhau . Có lúc , họ thắng cuộc chơi ít nhiều . Kể từ lúc các đồng minh phương tây – Anh , Pháp và sau đó là Mỹ - đô hộ tòan bộ khu vực , các kẻ kháng cự Trung đông theo tự nhiên là quay sang tìm sự giúp đỡ của phía kẻ thù của đồng minh. Trong thế chiến thứ 2 , họ quay sang Đức ; trong thời chiến tranh lạnh , đó là Liên Xô.
Ngay từ năm 1914, nước Đức lúc đó liên kết với đế quốc Ottoman , cố gắng huy động tình cảm tôn giáo ở người dân đạo Hồi thuộc các đế quốc Anh , Pháp và Nga để họ chống lại các ông chủ đế quốc và giúp nước Đức thủ lợi . Nổ lực này chỉ đem lại kết qủa quá ít , cho nên bị 1 nhà nghiên cứu Đông phương học người Hòa lan tên là Snouck Hurgronje chế nhạo trong 1 bài báo danh tiếng nhan đề :” Thánh chiến : chế tạo tại Đức".
Nơi mà Kaiser thất bại , thì có lúc Hitler lại đạt được thành công đáng kể . Vào cuối tháng 3 /1933 , ngay sau khi Hitler lên cầm quyền vài tuần , vị Mufti tại Jerusalem , Hajj Amin al-Husseini , đã tiếp cận tiến sĩ Heinrich Wolff , Tổng lãnh sự Đức tại Jerusalem , và đề nghị được cọng tác . Viên lãnh sự , sau khi báo cáo đề nghị này về Berlin , góp ý rằng nên từ chối hoặc ít nhất là cũng bỏ qua . Khi không còn hy vọng đứng về phía đế quốc Anh vì đã là đồng minh của Đức , không còn cách nào khác để chống lại Anh bằng bắt tay với phong trào chủ yếu chống Anh lúc đó . Ngay sau hiệp ước Munich 1938 , khi Hitler rốt cuộc từ bỏ hy vọng lôi kéo Anh vào liên minh chủng tộc Aryan cùng với Đức , thì các đề nghị của giới lãnh đạo Palestine mới đựơc chấp nhận . Từ đó trở đi và trong súôt những năm chiến tranh , mối liên kết của họ rất chặt chẽ và vị Mufti , khi thì ở Jerusalem , lúc ở Beirut , Baghdad , và cuối cùng từ văn phòng tại ngọai ô Berlin , đã đóng 1 vai trò quan trọng trong nền chính trị giữa các nước Ả -rập. Năm 1941 , nhờ sự giúp đỡ của Đúc thông qua Syria do chính phủ Vichy cai quản , Rashid ‘Ali có lúc đã thành công dựng lên 1 chế độ thân phe trục tại Iraq . Ông này bị quân Đồng minh đánh bại và chạy trốn sang Đức . Ngay cả Anwar Sadat , cũng tự thừa nhận là đã làm gián điệp cho Đức tại Ai cập do khi Anh còn cai trị .
Sự thất bại và sụp đổ của Đế chế thứ 3 cùng bộ máy của nó đã để lại 1 khỏang trống nhức nhối . Như nhiều người thấy được , chính trong giai đọan giao thời này mà vào năm 1948 người Do thái đã dựng nên 1 nhà nước và làm cho quân đội các Ả -rập bị thua trận nhục nhã khi ồ ạt tấn công ngăn không cho người Do thái thành lập nhà nước . Vì thế , cần phải tìm 1 ông chủ và người bảo vệ mới để thay thế cho Đế chế thứ 3 , đó là Liên Xô.
Rồi đến phiên Liên xô sụp đổ , chỉ còn lại Mỹ là siêu cường duy nhất . Như vậy kỷ nguyên của lịch sử vùng Trung đông được mở màn với Bonaparte và Nelson và kết thúc với Mikhail Gorbachev và George Bush cha . Thọat đầu , dường như kỷ nguyên cạnh tranh giữa các đế quốc đã chấm dứt với sự rút lui của 2 kình địch - Liên xô do không làm được , còn nước Mỹ thì không muốn đóng vai trò đế quốc . Nhưng trước những biến cố dài hơi , nhất là Cách mạng Iran và chiến tranh do nhà độc tài Iraq , Saddam Hussein , đã buộc nước Mỹ phải tham gia trực tiếp nhiều hơn vào các vụ việc của khu vực . Người dân Trung đông xem đây là 1 giai đọan mới của ván bài đế quốc cũ . Người Mỹ chưa hề có khả năng hoặc ý muốn đóng vai trò đế quốc .
Các nhà lãnh đạo Hồi giáo , cả 2 phe chính phủ và đối lập , phản ứng với tình hình mới này không giống nhau . Đối với một số người , đáp ứng tự nhiên là tìm 1 người bảo trợ mới - người kế tục Đế chế thứ 3 và Liên xô , người mà họ có thể tìm đựơc sự khích lệ , ủng hộ và giúp đỡ khi có chiến tranh chống lại phương Tây . Trong khi đó , phương Tây với tính cách là 1 khối quyền lực càng ngày càng lùi xa về phía tây hơn nữa và hiện nay chủ yếu chính là nước Mỹ , đã tạo ra một khả năng thú vị mới là châu Âu lục địa đóng vai trò đối nghịch . Một số nước châu Âu , vì lý do riêng , lại chia sẻ có mối hiềm thù và ác ý của vùng Trung đông đối với nước Mỹ , bày tỏ ý muốn sẳn lòng chấp nhận vai trò này . Nhưng đó chỉ là ý muốn , mà không có phương tiện .
Việc Liên xô sụp đổ , và thảm bại sau đó của Saddam Hussein trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 , là 1 cú đấm tai hại cho các phong trào quốc gia chủ nghĩa thế tục , nhất là đối với người Palestine , thêm một lần nữa , cũng như năm 1945 , thấy mình bơ vơ không có cường quốc nào bảo trợ và giúp đỡ cho chính nghĩa của mình . Người bảo trợ Liên xô không còn nữa . Thậm chí những nước Ả -rập ủng hộ tài chính cho họ là Kuweit và Saudi Arabia , tức giận vì Palestine ủng hộ nhiệt tình Saddam Hussein , có lúc cũng ngưng không trợ cấp , lại càng làm cho người Palestine thêm cô lập , nghèo đói và yếu hẳn đi .Chính bởi tình hình đó buộc họ phải nghĩ đến điều không thể nghĩ đến là chịu ký thoả hiệp hoà bình với Israel . Dứơi con mắt của nhóm chính thống , thì việc tổ chức PLO đựơc Mỹ và Israel cứu sống và bị đưa vào tròng khi hạ mình đối thoại với Israel là hành động đáng bị khinh bỉ .
Tất cả những điều này càng làm cho nhóm chính thống thấy quan điểm về thế giới của mình có lý hơn , và lý lẽ của họ thôi thúc hơn . Họ - đúng ra là với Usama bin Ladin - diễn giải sự sụp đổ của Liên xô theo 1 cách khác . Theo nhận thức của họ , thì chính họ , chứ không phải là Mỹ đã chiến thắng chiến tranh lạnh . Dưới mắt họ , Liên xô không phải là người giúp đỡ tốt bụng trong cuộc chiến chung chống lại người Do thái và đế quốc phương Tây nhưng lại là nơi xuất phát của chủ nghĩa vô thần và không tín ngưỡng , là nước đã áp bức hàng triệu người Hồi giáo , đã xâm lược Afghanistan . Họ cho rằng , không phải là không có lý , chính sự chiến đấu của họ tại Afghanistan đã đánh bại Hồng quân hùng mạnh và đưa Liên xô đến chỗ thất bại và sụp đổ . Sau khi thanh toán xong một kẻ địch nguy hiểm và hung tàn trong nhóm 2 siêu cường vô đạo , nhiệm vụ kế tiếp của họ là đối phó với kẻ địch còn lại , đó là nước Mỹ , và trong trận chiến này , ai mà thoả hiệp sẽ được coi là công cụ và tay sai cho kẻ địch vô đạo . Dựa trên nhiều lý do , nhóm chủ trương chính thống Hồi giáo cho rằng việc đánh nước Mỹ sẽ đơn giản và dễ dàng hơn . Theo họ , nước Mỹ hiện nay thối nát về đạo đức , xã hội suy đồi , và hệ qủa là nền chính trị và khả năng quân sự đều suy yếu . Nhận thức này có 1 lai lịch khá thú vị .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét