Chương IV
Tiêu chuẩn nươc đôi
Trong nhũng thập niên gần đây , càng ngày người Trung đông càng biểu lộ một sự óan trách nhạy cảm hơn , một mối bất bình mới chống lại chính sách Mỹ : không chỉ nhằm vào sự đồng lõa của Mỹ với chủ nghĩa đế quốc hoặc với chủ nghĩa Zion nhưng là một cái gì đó gần gũi và trực tiếp hơn – đó là sự đồng lõa củaMỹ với các nhà độc tài thối nát dang cai trị họ . Vì nhiều lý do hiển nhiên , lời óan trách cụ thể này không xuất hiện thường xuyên trước công chúng , cũng không thể nêu ra trong các cuộc chuyện trò giữa các viên chức đối ngọai và các nhà ngọai giao . Các chính phủ Trung đông , như Iraq , Syria và Tổ chức Palestine, đã học đựơc cách kiểm sóat khéo léo cơ quan ngôn luận trong nước và lôi kéo cả các phương tiện truyền thông phương Tây . Những lời óan thán này cũng không đựơc nêu ra trong khi thương thảo ngọai giao cũng vì những lý do hiển nhiên tương tự . Nhưng càng ngày vấn đề càng trở nên bức xúc và khắc khỏai hơn khi được đưa ra bàn luận riêng với những ai đáng tin cậy , và gần đây thậm chí công khai - mà không những chỉ giữa những người Hồi giáo cấp tiến , bởi vì đối với nhóm này đây là 1 vấn đề , là 1 chủ đề chính . Một điều khá thú vị , Cách mạng Hồi giáo Iran năm 1979 là thời điểm mà sự oán hận này được phát biểu công khai . Vua Shah bị tố cáo đã ủng hộ nước Mỹ , nhưng nước Mỹ cũng bị công kích vì đã dựng lên một chế mà các nhà cách mạng coi là vô đạo với nhà lãnh đạo độc đoán đóng vai bù nhìn . Trong những năm sau đó , người Iran phát hiện ra rằng những tên độc tài sùng đạo cũng có thể xấu xa bằng tên độc tài vô đạo , hoặc còn tệ hơn, và như thế cái nhản hiệu độc tài này không thể đổ lỗi là do nước ngoài nặn ra hoặc bảo trợ .
Những lời cáo buộc thường chỉa vào nước Mỹ , và nói chung là phương tây, có một số điểm đúng : Người Trung đông càng ngày càng than phiền rằng phương Tây đánh giá họ theo những tiêu chuẩn khác biệt và thấp hơn so với người Âu và Mỹ , cả 2 mặt về những gì mong đợi ở họ và ở những gì họ mong đợi , đó là nói về sự sung túc kinh tế và tự do chính trị của họ . Họ quả quyết rằng phương Tây nhiều lần bỏ qua hoặc thậm chí còn bảo vệ các hành động và giúp đỡ cho các nhà cầm quyền mà chính tại quê hương họ cũng không dung nạp được.
Có một số tương đối ít tại phương Tây tự cho rằng đang lâm vào cảnh đối đầu với đạo Hồi .Tuy nhiên , có 1 cảm nhận rộng rãi là có sự khác biệt khá lớn giữa chấu Âu tiến bộ với phần còn lại của thế giới , nhất là các dân tộc theo đạo Hồi và chính những người theo đạo Hồi này bằng nhiều cách khác nhau , thường ngầm cho rằng mình thuộc hạng hèn kém . Những vụ vi phạm nhân quyền trắng trợn , quyền tự do chính trị , thậm chí sự tử tế của con người cũng không được đếm xiả hoặc bị che đi , và các tội ác chống lại nhân lọai , nếu ở châu Âu hoặc tại Mỹ sẽ gây nên 1 làn sóng phản đối dữ dội , còn tại Trung đông thì không có gì đặc biệt , thậm chí lại còn đựơc chấp nhận . Các chế độ vi phạm không những đã đựơc dung thứ , mà thậm chí lại còn được bầu vào Ủy ban nhân quyền của Liên hiệp quốc , như Saudi Arabia , Syria , Sudan và Lybia.
Lý luận cơ bản của tất cả những điều này là các dân tộc trên không có khả năng điều hành 1 xã hội dân chủ và cũng như việc quan tâm và khả năng thu nhận tính tử tế của con người . Nhất lọat họ chỉ đáng để các chế độ độc tài thối nát cai trị . Không phải là việc của phương Tây uốn nắn họ , càng không phải làm cho họ thay đổi , nhưng chỉ để bảo đảm là các nhà độc tài thân thiện thay vì đối nghịch với các quyền lợi phương Tây. Trong bối cảnh này , quả thật là nguy hiểm khi xoi mói vào cái trật tự hiện có và những ai mưu cầu cuộc sống tốt hơn cho bản thân và đồng bào lại bị chê bai , và lắm khi nản chí . Quả là đơn giản , ít tốn , và an tòan hơn khi thay thế 1 bạo chúa gây lắm phiền tóai bằng 1 bạo chúa dễ bảo , thay vì phải đối diện với nguy cơ không đóan được khi chế độ thay đổi , nhất là khi sự thay đổi này là do ý chí của người dân thể hiện qua bầu cử tự do.
Nguyên tắc” ma quen mặt "( devil-you-know) dường như là nền tảng của các chính sách ngọai giao của nhiều chính phủ phương Tây đối với các dân tộc trong thê` giới Hồi giáo . Thái độ này đôi khi được trình bày và thậm chi được chấp nhận như là cách biểu lộ tình cảm và giúp đở cho nhân dân Ả -rập và chính nghĩa của họ , tin rằng khi bỏ qua cho các nhà lãnh đạo Ả -rập các qui luật thông thường phải cư xử theo văn minh thì chúng ta cũng đã ít nhiều tỏ ra hào hiệp đối với các dân tộc Ả -rập rồi . Trên thực tế , sự miễn trừ này chẳng hề có ý nghĩa gì , chẳng qua chỉ là đòi hỏi cần phải có 1 liên minh tạm thời vì lợi ích chung và nhắm vào 1 kẻ thù chung , đôi khi cũng vì có cùng thành kiến . Đào sâu hơn vào thực tế này , ta thấy đó chẳng qua chỉ là biểu hiện cho 1 sự thiếu tôn trọng và vô tình - thiếu tôn trọng về quá khứ vùng Ả -rập , vô tình đối với hiện tại và tương lai của họ .
Cách tiếp cận này cần có sự tiếp tay của cả giới ngọai giao lẫn giới học thuật tại Mỹ và khá rộng rãi ở châu Âu . Các nhà lãnh đạo Ả -rập vì thế có thể tàn sát hàng chục ngàn dân trong nước , như tại Syria và Algeria , hoặc giết hàng trăm ngàn người như tại Iraq và Sudan , tước đọat quyền công dân của hầu hết đàn ông và của tất cả phụ nữ , và nhồi nhét cho học sinh thái độ cố chấp và thù ghét người khác , mà không hề có sự phản đối quan trọng nào từ các phương tiện truyền thông và các định chế tự do từ phương Tây , thậm chí không hề có ý định trừng phạt như tẩy chay , gạt bỏ hoặc tố cáo từ trụ sở EU tại Brussels . Thái độ ngọai giao qua quít đối với các chính phủ Ả -rập đã làm hại rất nhiều cho nhân dân Ả -rập , một thực tế mà họ đang cảm nhận một cách đau xót .
Khi có nhiều người Trung đông nhận ra vấn đề này , thì lập trường cơ bản của các chính phủ châu Âu và Mỹ như sau :” Chúng tôi không quan tâm đến những gì các ông làm đối với dân các ông , miễn là các ông hợp tác đáp ứng các yêu cầu của chúng tôi và bảo vệ quyền lợi cho chúng tôi”.
Đôi khi , khi quyền lợi của Mỹ bị đụng chạm , chính phủ Mỹ sẵn sàng phản bội những ai mà họ đã hứa hẹn giúp đỡ và thuyết phục họ chấp nhận rũi ro . Lấy 1 ví dụ khá rõ xảy ra vào năm 1991 , khi Mỹ kêu gọi dân Iraq chống lại Saddam Hussein . Người Kurd ở phía bắc và người Shi’a ở phía nam Iraq đã đứng lên ; còn các lực lượng chiến thắng của Mỹ chỉ đứng im nhìn Saddam Hussein đem máy bay trực thăng ( theo thỏa hiệp ngưng bắn cho phép Iraq được giữ lại ) đàn áp đẩm máu và tàn sát quân nổi dậy từng nhóm một , từng vùng một .
Cũng không khó mấy để hiểu được lý lẽ cho hành động này - đúng ra là bất động . Đương nhiên là, liên minh chiến thắng vùng Vịnh muốn chính quyền tại Iraq có sự thay đổi , nhưng họ lại mong một cuộc đảo chính , thay vì một cuộc cách mạng . Họ cho rằng quả là nguy hiểm khi có một cuộc nổi dậy thực sự do quần chúng nổ ra - bởi vì có thể dẫn tới tình trạng mất ổn định , thậm chí tình trạng vô chính phủ trong vùng . Cuộc nổi dậy này còn có thể đẻ ra 1 nhà nước dân chủ , là một viễn cảnh đầy hỏang sợ cho các đồng minh của Mỹ trong vùng . Một cuộc đảo chính sẽ dễ dự đóan trước vì có thể đạt đựơc kết qủa mong muốn : thay thế Saddam Hussein bằng 1 người khác , một tay độc tài dễ sai hơn , người sẽ thay cho ông ta vị trí đồng minh trong liên minh .Chính sách này đã thất bại một cách thảm hại , và trong vùng coi đó là 1 hành động phản bội , hoặc là mềm yếu , ngu xuẫn hoặc giả đạo đức.
Một ví dụ khác về tiêu chuẫn nước đôi này đã xảy ra tại thành phố Hama của Syria vào năm 1982. Những vụ lộn xộn tại Hama bắt đầu bằng 1 cuộc nổi dậy do nhóm Huynh đệ Hồi giáo cấp tiến dẫn đầu. Chính phủ Syria thẳng tay đàn áp tức thì . Họ chẳng cần sử dụng súng phun nước và đạn cao su , cũng chẳng cần đưa lính tới để ứng phó với mấy tay bắn tỉa hoặc gở mìn con cóc ( booby trap ) khi lục sóat từng nhà nhằm phát hiện kẻ thù lẫn trốn trong dân chúng. Phương pháp của họ đơn giản hơn , an tòan hơn và chóng vánh hơn. Họ đem xe tăng , pháo binh , máy bay thả bom đến tấn công thành phố , sau đó đem xe ủi đất đến để hòan tất công trình tiêu diệt. Trong một thời gian rất ngắn , họ biến phần lớn thành phố thành đống gạch vụn . Số người bị giết , theo Tổ chức Ân xá quốc tế , ứơc tính đâu đó giữa con số 10.000 và 25.000.
Hành động này , do chính Tổng thống Syria , là Hafiz al –Assad , ra lệnh và chỉ đạo , không được chú ý mấy vào thời điểm đó . Thật là 1 đáp ứng nghèo nàn trái ngược hòan tòan với 1 vụ thạm sát khác , xảy ra vài tháng sau đó tại 1 trại tị nạn Palestine tại Sabra và Shatila , tại Liban. Trong biến cố này , có khỏang 7-800 người Palestine bị dân quân Cơ đốc Liban , đồng minh của Israel ,tàn sát . Cuộc giết chóc này đã dấy lên 1 sự chê trách dữ dội và rộng rãi tại Israel cho đến tận bây giờ . Cuộc thảm sát tại Hama không hề ngăn Mỹ thôi ve vãn Assad , người đứng ra đón tiếp một lọat các cuộc thăm viếng của các đời Ngọai trưởng Mỹ , từ James Baker ( 11 lần từ 9/1990 đến 7/1992), Warrren Christopher ( 15 lần từ tháng 2/1993 và 2/1996) và Madeline Albright ( 4 lần từ tháng9/1997 đến tháng 1/2000) , và ngay cả đến Tổng thống Bill Clinton ( 1 lần viếng Syria và 2 lần gặp tại Thụy sĩ tháng 1/1994 và tháng 3/2000 ) . Khó mà có thể chấp nhận rằng người Mỹ lại sẵn lòng vồ vập 1 nhà lãnh đạo gây ra những tội ác như thế trên đất phương Tây , với nạn nhân là người châu Âu . Hafiz al -Assad chưa bao giờ là đồng minh của Mỹ hoặc , như theo những người khác, là bù nhìn , nhưng chắc chắn không phải là do nền ngoại giao của Mỹ không cố gắng.
Phe Hồi giáo chính thống cảm nhận có 1 sự bất bình đẳng khác biệt – một sự bất bình đẳng khác không kém phần sâu sắc về các tiêu chuẩn nước đôi . Những người bị tàn sát tại Hama là nhóm Huynh đệ Hồi giáo cùng với gia đình và láng giềng của họ , đã không khơi dậy được mấy sự quan tâm ở phương tây . Dường như dưới mắt phương tây , nhân quyền không hề áp dụng cho các nạn nhân đạo Hồi ngoan đạo , cũng như những hạn chế về dân chủ đem áp dụng cho các tên giết người"thế tục”.
Sự ngờ vực của phương Tây đối với các phong trào chính trị Hồi giáo , và sẳn lòng dung thứ hoặc thậm chí còn giup đỡ các nhà độc tài tìm cách gạt không cho những phong trào đó nắm quyền càng thấy rõ hơn trong trường hợp Algeria , khi bản hiến pháp dân chủ được cuộc trưng cầu ý kiến tháng 2/1989 thừa nhận và 1 hệ thống đa đảng chính thức ra đời vào tháng 7 cùng năm. Vào tháng 12 năm 1991 , Mặt trận cứu nguy Hồi giáo ( FIS) chiếm ưu thế trong vòng đầu phiếu đầu tiên bầu Quốc hội và hình như có rất nhiều khả năng sẽ thắng đa số trong vòng 2. FIS đã thách thức giới quân đội Algeria , đã tố cáo họ đàn áp nhân dân giỏi hơn là ra tay giúp đỡ người anh em trong cơn nguy khốn. Người anh em đang nguy khốn là Saddam Hussein , người mà qua việc xâm lăng Kuwait và thách thức phương tây đã khơi lên một tình cảm cuồng nhiệt cho nhóm Hồi giao chính thống tại Bắc Phi , và đã thuyết phục các nhà lãnh đạo của họ chuyển lòng trung thành đối với những người bảo trợ ở Saudi Arabia sang vị anh hùng mới ở Iraq . Vào tháng giêng năm 1992, căng thẳng càng lúc càng tăng , phe quân sự hủy bỏ vòng bầu cử lần 2 . Trong những tháng sau đó , họ giải tán FIS và thiết lập 1 chế độ"thế tục” , thực tế là 1 chế độ độc tài tàn nhẫn , có sự đồng tình từ Paris, Washington và các thủ đô phương Tây khác. Tiếp sau đó là 1 cuộc chiến cay đắng và đầy chết chóc , với lời tố cáo đó là những cuộc tàn sát từ 2 bên- phe chính thống là do quân đội và các công cụ khác của nhà nước, còn phe chính thống thì cho đó là do bọn chủ trương thế tục và cải cách cùng với những kẻ chờ thời không đảng phái . Năm 1997, Tổ chức Ân xá quốc tế ước tính con số nạn nhân khoảng 80.000 người , đa số là dân thường , tính từ khi cuộc chiến đấu bắt đầu .
Al- Qa’ida một mực cho rằng nước Mỹ chịu trách nhiệm về việc giới quân sự cướp quyền tại Algeria. Ở đây cũng như tại nơi khác , Mỹ- kẻ đầu sỏ của thế giới những tên vô đạo - đương nhiên là bị chê trách cho tất cả những gì sai trái , nhất là đối với việc đàn áp các phong trào Hồi giáo , tàn sát các tín đồ đạo này , việc dựng lên những cái được coi là nền cai trị độc tài chống lại đạo Hồi với sự tiếp tay của phương Tây – và nhất là Mỹ . Ở đây , người Mỹ cũng bị trách cứ - do nhiều người vì không phản đối sự vi phạm các quyền tự do dân chủ , do một số vì đã tích cực khuyến khích và giúp đỡ cho chế độ quân sự . Những vấn đề tương tự cũng đã xảy ra tại Ai cập, Pakistan và tại một số quốc gia Hồi giáo khác là những nơi mà nếu cho bầu cử tự do và công bằng thì phe Hồi giáo có khả năng thắng cử.
Về mặt này , phe dân chủ đương nhiên là bị bất lợi . Ý thức hệ của họ đòi hỏi phải cho phe đối lập Hồi giáo tự do và quyền lợi , ngay cả khi họ đang cầm quyền . Phe Hồi giáo , khi lên cầm quyền , đúng ra phải chịu sự bó buộc tương tự . Nhưng ngược lại , nguyên tắc của phe Hồi giáo là phải đàn áp những gì mà họ coi là các hoạt động không sùng đạo và lật đổ .
Đối với nhóm chủ trương Hồi giáo ( Islamist) , thì nền dân chủ , bày tỏ ý muốn người dân, là con đường để nắm quyền lực , nhưng đó là đường một chiều , không có điểm lùi , không được từ bỏ quyền lực của Thượng đế , được thể hiện qua những người đại diện được chính Thượng đế lựa chọn . Chính sách bầu cử của họ được tóm tắt kinh điển như sau :"Một người ( chỉ dành cho nam giới ) , một phiếu , một lần duy nhất”.
Rõ ràng là , trong thế giới Hồi giáo cũng như tại châu Âu , bầu cử tự do và công bằng chỉ là 1 kết quả cuối cùng , chứ không phải là sự khởi đầu của 1 tiến trình xây dựng dân chủ . Nhưng đo không phải là lý do để ve vãn các nhà độc tài .
Chương V
Sự thất bại của phong trào Cách tân
Dường như toàn bộ thế giới Hồi giáo đều chịu cảnh nghèo nàn và ách chuyên chế . Cả 2 vấn đề này đều được qui cho nước Mỹ , nhất là đối với những ai cố tình đánh lạc hướng để khỏi bị chú ý - vấn đề thứ 1 là sự thống trị và bóc lột kinh tế của Mỹ mà hiện nay được cải trang qua quít dưới dạng "toàn cầu hóa’ ; vấn đề thứ 2 là sự ủng hộ của Mỹ cho nhiều tay được gọi là độc tài Hồi giáo đang phục vụ cho các mục đích của họ. Toàn cầu hóa là 1 chủ đề chính trên các phương tiện truyền thông Ả -rập, và luôn luôn được coi là có liên quan với sự xâm nhập kinh tế của Mỹ . Tình hình kinh tế càng ngày càng bi đát tại phần lớn thế giới Hồi giáo , khi so sánh không những chỉ với phương Tây mà còn với các nền kinh tế đang lên nhanh chóng tại Đông Á , lại càng làm cho nổi căm giận bùng lên. Chính vì uy thế tột đỉnh của Mỹ , theo cách nhìn của người Trung đông , đã chỉ ra nơi nào để trút sự chỉ trích và hành vi thù địch .
Sự kết hợp giữa năng suất lao động thấp và tỉ suất sinh cao tại Trung đông đã tạo nên một hỗn hợp bất ổn , giữa 1 dân số lớn và càng ngày càng tăng thêm gồm toàn các thanh niên thất nghiệp , ít học và chán nản. Theo tất cả các chỉ tiêu của Liên hiệp quốc ,Ngân hàng thế giới , và các cơ quan khác , về các vấn đề như tạo việc làm , giáo dục , trình độ công nghệ và năng lực sản xuất, các nước Ả -rập càng ngày càng tụt hậu sau phương Tây . Tệ hơn nữa , là các nước Ả -rập cũng tụt hậu so với những nước mới đi theo con đường cách tân phương tây , như Hàn quốc , Đài loan , Singapore.
Các con số so sánh về năng lực thực hiện của các nước Hồi giáo, phản ánh trên con số thống kê , lại càng tệ hại . Trong danh sách các nền kinh tế tính theo GDP , xếp hạng cao nhất tại 1 nước đa số đạo Hồi là Thổ nhĩ kì , với 64 triệu dân , chỉ đứng hàng thứ 23 , giữa Áo và Đan mạch , là những nước có số dân xấp xỉ 5 triệu . Nước tiếp theo là Indonesia , với 212 triệu dân , chiếm vị trí thứ 28 , đứng sau Norway với 4,5 triệu dân ,và kế tiếp là Saudi Arabia có 21 triệu dân . Khi so sánh với năng lực mua sắm , nước Hồi giáo đầu tiên là Indonesia xếp hàng thứ 15 , tiếp đến là Thổ nhĩ kì hàng thứ 19 .Nước Ả -rập xếp hạng cao nhất là Saudi Arabia , ở vị trí 29 , sau đó là Ai cập . Về tiêu chuẩn sống , tính theo GDP đầu người , nước Hồi giáo cao nhất là Qatar , vị trí thứ 23 , sau đó là Các tiểu vương quốc Ả -rập ( UEA) , vị trí 25 và Kuwait vị trí 28.
Xếp theo năng suất công nghiệp , nước Hồi giáo xếp hạng cao nhất là Saudi Arabia , thứ 21 , theo sau là Indonesia , cùng hạng 22 với Áo và Bỉ , còn Thổ nhĩ kỳ cùng hạng 27 với Norway . Xếp theo năng suất chế tạo , nước Ả -rập có vi trí cao nhất là Ai cập , cùng hạng thứ 35 với Norway .Xếp theo kỳ vọng sống , nước Ả -rập cao nhất là Kuwait , hạng thứ 32 , đứng sau Đan mạch và trước Cuba . Về số lượng máy điện thoại trên 100 dân , nước Hồi giáo xếp hạng cao nhất là Các tiểu vương quốc Ả -rập ( UEA) , chiếm vị trí 33 , đi sau Macau , trước Reunion. Về số lượng máy vi tính trên 100 dân , nước Hồi giáo xếp hạng cao nhất là Bahrain , vị trí 30 , trước Qatar vị trí 32 và Các tiểu vương quốc Ả -rập ( UEA) vị trí 34 .
Về số lượng sách được bán lại là một bức tranh ảm đạm hơn . Trong bảng xếp hạng 27 quốc gia, đầu bảng là Mỹ , cuối bảng Việt nam , không hề có tên một nước Hồi giáo nào cả. Về chỉ số phát triển con người ( HDI ) , Brunei hạng thứ 32 , Kuwait thứ 40 , Qatar thứ 41 , Các tiểu vương quốc Ả -rập ( UEA) 44 , Lybia 66 , Kazakhstan 67 , và Saudi Arabia cùng hạng 68 với Brazil.
Trong báo cáo về vấn đề Phát triển con người Ả -rập năm 2002 , do 1 tiểu ban gồn các trí thức Ả -rập chuẩn bị và xuất bản dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc , một lần nữa lại phát hiện những điểm đối nghịch đập ngay vào mắt .” Thế giới Ả -rập dịch mỗi năm khoảng 330 quyển sách , bằng 1/5 số sách dịch của Hi lạp . Toàn bộ số sách dịch tính dồn từ thời Caliph Maa’moun ( sic) ( thế kỷ thứ 9) khoảng 100.000 quyển , bằng con số trung bình mà Tây ban nha dịch trong 1 năm . Tình hình kinh tế cũng không khá hơn :”GDP của tất cả các nước Ả -rập cọng lại chỉ được 531,2 tỉ USD vào năm 1999 – còn thấp hơn nước châu Âu là Tây ban nha ( 595,5 tỉ ) .” Một khía cạnh khác của tình trạng kém phát triển được trình bày trong bảng "các nhà khoa học nghiên cứu tích cực , các bài báo , và các tạp chí được trích dẫn thường xuyên tính trên triệu dân , 1987” .
Nước | Các nhà khoa học nghiên cứu | Các bài báo có từ 40 lần trích dẫn trở lên | Số tạp chí được trích dẫn /1 triệu dân |
Mỹ | 466211 | 10481 | 42,99 |
Ấn độ | 29509 | 31 | 0,04 |
Úc | 24963 | 280 | 17,23 |
Thụy sĩ | 17028 | 523 | 79,9 |
Trung quốc | 15558 | 31 | 0,03 |
Israel | 11617 | 169 | 36,63 |
Ai cập | 3782 | 1 | 0,02 |
Hàn quôc | 2255 | 5 | 0,12 |
Saudi Arabia | 1915 | 1 | 0,07 |
Kuwait | 884 | 1 | 0,53 |
Algeria | 362 | 1 | 0,01 |
Không có gì ngạc nhiên , khi so sánh các con số về tình trạng không biết đọc.
Trong bảng sắp 155 nước có tự do kinh tế năm 2001 , các nước Ả -rập vùng vịnh có vị trí khá tốt , Bahrain hạng thứ 9, Các tiểu vương quốc Ả -rập ( UEA) thứ 14, vàKuwait thứ 42 . Nhưng năng lực kinh tế chung của khối Ả -rập và của khối Hồi giáo nói chung vẫn còn khá nghèo . Theo Ngân hàng thế giới , vào năm 2000 lợi tức bình quân tại các nước Hồi giáo từ Morocco đến Bangladesh chỉ bằng nửa bình quân thế giới , và vào những năm thuộc thập kỷ 1990 GNP kết hợp của Jordan , Syria và Liban - tức là 3 nước Ả -rập láng giềng của Israel - còn thấp hơn Israel một mình . Các con số tính theo đầu người còn tệ hơn . Theo thống kê Liên hợp quốc , GDP đầu người của Israel gấp 3 ,5 lần của Liban và Syria , gấp Jordan 12 lần , và gấp 13,5 lần so với Ai cập .
Sự đối nghịch với phương tây , và giờ đây với Viễn đông , lại càng làm chưng hửng nhiều hơn. Trong quá khứ , đã có những sự cách biệt như thế nhưng đại đa số quần chúng không hề hay biết . Ngày nay nhờ các phương tiện truyền thông và thông tin hiện đại , ngay cả 1 người dân nghèo nhất , ít học nhất cũng thấy đau xót về sự khác biệt giữa họ với người khác , theo từng mức cá nhân , gia đình , địa phương , và cấu trúc xã hội .
Sự canh tân về chính trị cũng không đưa đến kết quả tốt hơn - có lẽ còn tệ hơn - so với chiến tranh và kinh tế . Nhiều quốc gia Hồi giáo đã trải qua các định chế dân chủ dưới hình thức này hoặc hình thức khác. Một số nước , như tại Thổ nhĩ kì và Iran , các định chế này là do các nhà cải cách bản xứ có tính thần sáng tạo đưa vào ; tại các nước khác , như tại nhiều nước Ả -rập , các định chế trên được đế quốc dựng lên rồi trao lại khi rút lui . Chỉ trừ ngoại lệ Thổ nhĩ kỳ , tất cả đều là thất bại không cứu vãn được . Các đảng phái chính trị và nghị viện rập theo phương tây hầu như bao giờ cũng đưa đến các nền cai trị độc tài thối nát, được duy trì bằng sự đàn áp và nhồi sọ giáo điều . Mô hình phương tây duy nhất có tác dụng , về mặt đạt được mục đích , là nền độc tài 1 đảng . Đảng Ba’th , có nhiều nhánh chia ra cai trị Iraq và Syria trong nhiều thập kỷ , là sự kết hợp những tính chất tệ hại nhất của mô hình Quốc xã và Liên xô. Từ khi nhà lãnh đạo Ai cập , Tổng thống Nasser , qua đời năm 1970 , không có nhà lãnh đạo Ả -rập nào có được sự ủng hộ rộng rãi bên ngoài nước mình . Thật vậy , không có nhà lãnh đạo Ả -rập dám thử thách quyền lực của mình qua bầu cử tự do . Những nhà lãnh đạo được lòng toàn thể khối Ả -rập là Mu’ammar Qaddafi của Lybia vào những năm thuộc thập kỉ 1970 và gần đây nhất là Saddam Hussein .Vì sao 2 nhà lãnh đạo này , trong số tất cả các nhà lãnh đạo Ả -rập , lại được ủng hộ rộng rãi như thế là 1 điều kinh khủng và cần phải tìm hiểu .
Nhận định về vấn đề này , sẽ không hề ngạc nhiên khi nhiều người Hồi giáo nói đến sự thất bại của việc hiện đại hóa và ứng phó với các chẩn đoán khác nhau về căn bệnh của xã hội của mình , cùng với các đơn thuốc để chữa trị .
Đối với nhiều người , câu trả lời là cần hiện đại hóa nhiều hơn , tốt hơn nữa , để đưa vùng Trung đông bắt kịp thế giới hiện đại và đang hiện đại hóa . Đối với những người khác , hiện đại tự nó là 1 vấn đề , là là nguyên nhân của tất cả những nổi thống khổ của họ .
Nhân dân vùng Trung đông ngày càng ý thức về cái hố sâu càng ngày càng rộng giữa các cơ hội của thế giới tự do bên ngoài biên giới của họ và sự thiếu thốn và áp bức kinh hoàng trong nước . Nỗi căm giận từ đó đương nhiên là nhắm vào trước hết các nhà cầm quyền , và sau đó là nhằm vào những ai vì lý do ích kỷ đã giúp cho những người cầm quyền này giữ được quyền lực . Chắc hẳn là có ý nghĩa khi tất cả những tên khủng bố tham gia vào vụ tấn công 11/9 vào New York và Ngũ giác đài đều đến từ Saudi Arabia và Ai cập – tức là các quốc gia mà các nhà lãnh đạo được coi là thân thiện với Mỹ .
Một lý do giải thích thực tế kỳ quặc này , do 1 đặc vụ Al Qa’ida đưa ra , là những tay khủng bố từ các quốc gia thân thiện ít bị khó khăn khi xin thị thực vào nước Mỹ . Một lý do có tính cơ bản hơn là tại những nước mà Mỹ nhúng tay duy trì các chế độ độc đoán vốn có thái độ thù nghịch sâu sắc hơn . Một trường hợp đặc biệt , đang được xem xét kỹ hơn , đó là Saudi Arabia , là nơi có một số khá đông thành viên của chính chế độ đó dường như có lúc cũng chia xẻ và hun đúc mối thù nghịch này.
Chương VI
Cuộc hôm nhân giữa quyền lực nhà Saudi và lời giảng của Wahhabi
Việc từ bỏ tính hiện đại để quay về với quá khứ thần thánh đã từng là 1 lịch sử lắm vẻ và đầy ngóc ngách trong vùng và đã phát sinh ra một số phong trào .Quan trọng nhất trong những phong trào này chắc chắn phải là phong trào Wahhabit đặt theo tên người sáng lập Muhammad ibn ‘Abd al-Wahhab ( 1703-1792) , là 1 nhà thần học vùng Najd thuộc Arabia , vùng này do các sheik thuộc gia tộc Saud cai trị . Năm 1744 , Wahhab phát động 1 chiến dịch thanh giáo và phục hưng . Mục đích công khai là quay trở lại Hồi giáo thuần khiết và chân chính của Đấng sáng lập , lột bỏ , và nếu cần , triệt phá tất cả những gì sau này mới thêm vào và làm sai lệch .
Sự nghiệp của Wahhabi được các nhà cai trị dòng Saud tại Najd chớp lấy, rồi có lúc đã khuyếch trương thành công nhờ vũ lực . Qua nhiều chiến dịch quân sự , họ đã đặt được nền móng cai trị và đức tin tại phần lớn vùng trung và phía đông bán đảo Ả -rập và thậm chí còn tấn công vùng Lưỡi liềm phì nhiêu do đế quốc Ottoman cai trị trực tiếp . Sau khi cướp được Karbala , là thánh địa của dòng Shi’a tại Iraq , họ quay sang chú ý Hijaz và vào năm 1804-1806 , họ chiếm được nơi này và sau đó – theo lời họ - đã làm tinh khiết các thành phố linh thiêng Mecca và Medina . Lúc này rõ ràng là họ đang đối đầu và thách thức sultan của đế quốc Ottoman , người mà nhà cai trị dòng Saud tố cáo là kẻ đã sa ngã , xa rời niềm tin Hồi giáo và là kẻ thoán đoạt tại 1 nhà nước Hồi giáo .
Đế quốc Ottoman , dù đang ở trong giai đọan suy tàn , nhưng vẫn đủ sức đối đầu với 1 tên phiến lọan vùng sa mạc . Nhờ sự giúp đỡ của viên Pasha tại Ai cập gởi quân tiếp viện , công việc bình định hoàn tất năm 1818 , thủ đô Saudi bị chếm , viên emir Saud bị bắt dẫn về Istanbul xử trảm . Vào thời điểm này , nhà nước Saud không còn tồn tại , nhưng học thuyết của Wahhabi vẫn còn , và từ năm 1823 trở đi , một thành viên khác của tộc Saud phục hồi được 1 lãnh địa Saud , đóng đô tại Riyadh . Một lần nữa , các thủ lãnh của tộc Saud lại đứng ra giúp đỡ và được sự giúp đỡ của các luận điểm của học thuyết Wahhabi.
Sự ra đời của học thuyết Wahhabi tại bán đảo Arabia vào thế kỷ 18 trong chừng mực nào đó là 1 đáp ứng đối với sự chuyển mình của thời đại . Dĩ nhiên một trong những tình huống đó là sự thoái trào của đạo Hồi và bước tâng công tương ứng của thế giới Cơ đốc. Điều này đã xảy ra từ lâu rồi , nhưng đây là 1 tiến trình chậm và từ từ , và khởi sự tại những vùng biên xa xôi thuộc thế giới Hồi giáo. Đến thế kỷ 18 , nó mới trở nên rõ ràng tại vùng trung tâm . Sự thoái lui lâu dài và chậm của đế quốc Ottoman ở vùng Balkan và sự dấn bưóc của người Anh tại Ấn độ , tuy vẫn còn xa xôi đối với bán đảo Arabia , nhưng tác động của nó vẫn được cảm nhận , một mặt từ phiá đế quốc Ottoman , mặt kia từ phía vùng vịnh Ba tư , và chắc chắn đã được phản ánh qua các khách hành hương từ khắp thế giới Hồi giáo đến Arabia hàng năm . Sự căm giận của những tin đồ Wahhabi không chỉa thẳng vào người bên ngoài , nhưng nhắm vào nhưng người mà họ cho là phản bội và làm giảm uy tín Hồi gian từ bên trong : một mặt là những người chủ trương cải cách canh tân , mặt khác - và đây chính là mục tiêu trực tiếp hơn- đó là những người mà nhóm Wahhabi cho là đã làm thối nát và làm xấu đi di sản Hồi giáo chân chính của Đấng tiên tri và Chiến hữu của Người . Dĩ nhiên ngoài chính họ ra , còn lại họ chống đối mạnh mẽ mọi trường phái hoặc phe phái Hồi giáo , dù đó là Sunni hoặc Shi’a . Họ hết sức chống phái Sufi , tố cáo phái này không những ở chủ trương thần bí và tính khoan dung mà còn ở điểm họ cho rằng phái này thờ phụng tà giáo .
Ở bất cứ nơi nào , khi có điều kiện thì họ thể hiện niềm tin của mình cực kỳ tàn bạo và nghiêm khắc như phá hủy lăng mộ , báng bổ những chốn linh thiêng mà họ cho là giả ngụy và thờ ngẫu tượng , và tàn sát vô số đàn ông , đàn bà , và trẻ em là những người không đạt đựơc các tiêu chuẩn Hồi giáo thuần khiết và chân chính. Wahhabi cũng thực hiện việc qui tội cho sách và đốt sách . Đó chủ yếu là những công trình Hồi giáo về thần học và luật được coi là trái ngược với học thuyết Wahhabi . Cùng với đốt sách là việc xử tử ngắn gọn những ai viết sách , chép sách hoặc dạy theo sách đó .
Liên minh lần 2 giữa học thuyết Wahhabi và lực luợng vua Saud bắt đầu vào những năm cuối của đế quốc Ottoman và còn kéo dài đến tận ngày nay. Có 2 sự phát triển vào đầu thế kỷ 20 đã chuyển đổi học thuyết Wahhbi thành 1 lực lượng chính bên trong thế giới Hồi giáo và vượt ra ngoài . Sự phát triển thứ 1 là việc củng cố và mở rộng vương quốc Saudi . Vào những năm cuối cùng của đế quốc Ottoman, Sheikh ‘Abd al’Aziz Ibn Saud ( sinh năm 1880 , trị vì 1902-1953) đã khéo léo chống lại vua Ottoman phía bắc và sự bành trướng quyền lực của Anh ở phía đông bán đảo Ả -rập. Vào tháng 12 năm 1915 , ông ta ký 1 thỏa ước với Anh ; nhờ đó trong khi vừa giữ được nền độc lập , lại nhận đựơc sự trợ cấp và lời hứa sẽ được giúp đỡ nếu bị tấn công. Chiến tranh chấm dứt và sự tan rã của đế quốc Ottoman đã chấm dứt giai đoạn này , và để lại một mình ông ta đối diện với người Anh . Ông ta kiếm chác khá trong hoàn cảnh mới này và có cơ hội mở rộng cương vực thừa kế qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau . Vào năm 1921 , cuối cùng thì ông ta cũng đánh bại được kẻ kình dịch lâu đời là Ibn Rashid tại vùng bắc Najd , sáp nhập lãnh thổ của kẻ thù là lấy tước hiệu là sultan vùng Najd .
Giờ đến giai đoạn phải chiến đấu quyết liệt hơn , để dành quyền kiểm soát Hijaz. Vùng đất này , có 2 thành phố thiêng liêng của đạo Hồi là Mecca và Medina , trên 1000 năm dưới quyền cai trị của con cháu triều đại Hashimite , hậu duệ của Đấng tiên tri ; những thế kỷ sau này dưới quyền bá chủ lỏng lẻo của đế quốc Ottoman. Sự hình thành các vương quốc Hashimite , do nhiều nhánh của gia tộc này cai trị , tại Iraq và tại Transjordan như là 1 phần của việc tổ chức lại các tỉnh Ả -rập thuộc đế quốc Ottoman trước kia sau khi thế chiến thứ nhất chấm dứt , theo Ibn Saud là 1 sự đe doạ cho vương quốc của mình . Sau nhiều năm quan hệ tồi tệ , vua Hussein tại Hijaz đưa ra 1 lý lẽ nước đôi , một là là tự phong cho mình tước hiệu Caliph , hai là cho kiểm soát chặt chẽ các khách hành hương nhóm Wahhabi khi vào 2 thành phố thiêng liêng này . Ibn Saud phản ứng bằng cách tấn công Hijaz .
Chiến tranh chinh phục của nhà Saud đạt được thắng lợi hoàn toàn. Lực lượng của họ đầu tiên chiếm Mecca ; sau đó , vào ngày 5 tháng 12 ,1925 , Medina ngoan ngoãn đầu hàng sau khi bị bao vây 10 tháng . 2 tuần sau , vua Ali , người kế nghiệp vua cha Hussein , nhờ viên phó Lãnh sự người Anh tại Jedda báo cho Ibn Saud là ông ta sẽ rút lui khỏi Hijaz cùng với tư trang cá nhân . Được coi là nhà vua thoái vị , ngày hôm sau quân của Saud tiến vào Jedda. Giờ đây rộng đường cho Ibn Saud thoải mái tự xưng là vua Hijaz và Sultan Najd và các vùng phụ thuộc vào ngày 8 tháng giêng năm 1926. Chế độ mới lập tức được các cường quốc châu Âu thừa nhận , đặc biệt là Liên xô đã thông báo ngoại giao cho Ibn Saud” căn cứ trên nguyên tắc quyền tự quyết của dân tộc và xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân Hijaz chọn ngài làm vua của họ". Một hiệp ước chính thức giữa Ibn và nước Anh , thừa nhận sự độc lập toàn vẹn của vương quốc , được ký vào ngày 20 tháng 5 , 1927 . Một số quốc gia châu Âu khác cũng theo gương này.
Sự thừa nhận từ khối Hồi giáo ngược lại chậm hơn và có tính miễn cưởng hơn. Một phái đoàn Hồi giáo từ Ấn độ viếng Jedda và yêu cầu nhà vua trao quyền kiểm soát các thành phố thiêng liêng cho 1 uỷ ban gồm các đại biểu được tất cả các nước Hồi giáo chỉ định . Ibn Saud không thèm đáp ứng yêu cầu này và tống phái đoàn về Ấn bằng đường biển . Vào tháng 6 năm đó , ông triệu tập Hội nghị toàn Hồi giáo tại Mecca , mời các vua chúa và lãnh đạo các nước Hồi giáo độc lập và đại biểu thuộc các tổ chúc Hồi giáo tại các quốc gia không thuộc quyền cai trị Hồi giáo . Có 69 đại diện từ mọi nước thuộc thế giới Hồi giáo tham dự . Phát biểu trước hội nghị , Ibn Saud nói rõ là giờ đây ông ta là người cai trị Hijaz . Nhà vua có nhiệm vụ gìn giữ các thánh địa và bảo vệ cho người hành hương nhưng lại không cho phép bất cứ sự can thiệp bên ngoài nào xía vào những nhiệm vụ trên.
Khi đó , ông ta đã làm cho mọi người ngơ ngác . Một số tức giận và bỏ đi ; một số khác thừa nhận trật tự mới . Trong nhóm sau , đáng chú ý nhất là người dẫn đầu đoàn đại biểu tín đồ Hồi giáo ở Liên xô , vị trưởng đoàn này trong bài phỏng vấn của Thông tấn xã Liên xô TASS , đã tuyên bố rằng Hội nghị Hồi giáo này công nhận vua Ibn Saud là người Cai quản các thánh địa , hội nghị cũng kêu gọi nên chuyển giao những phần đất của Jordan sang cho vương quốc Hijaz mới thành lập , và nói chung là bày tỏ sư ủng hộ đối với vua Ibn Saud. Mãi về sau này các quốc gia Hồi giáo và các nước Ả -rập mới thừa nhận . Các hiệp ứơc hữu nghị được ký kết với Thổ nhĩ kỳ và Iran vào năm 1929, với Iraq năm 1930 và với Jordan năm 1933. Ai cập chỉ chính thức cộng nhận sự sáp nhập vào Saudi Arabia khi ký hiệp ứơc vào tháng 5 /1936.
Vào thời điểm này , vua Ibn Saud nhanh chóng thực hiện việc tổ chức và cơ cấu lại vương quốc bao la của mình và vào tháng 9/1932 , một nhà nước thống nhất với tên gọi là Vương quốc Saudi Arabia đựơc tuyên cáo . Năm sau , ông ta chỉ định người con trưởng , Saud , làm người kế vị ngai vàng .
Cùng năm đó , cũng có 1 sự kiện lớn khác gây ảnh hưởng đến khu vực , đó là việc ký kết một thỏa hiệp giữa bộ trưởng tài chính Saudi Arabia và đại diện của công ty dầu hỏa Standard Oil of California vào ngày 19 tháng 5 năm 1933 .Nền chính trị Saudi và các học thuyết của Wahhabi giờ đây đã tạo được 1 cơ sở tài chính vững chắc.
Các quyền lợi của phương tây về mặt dầu hỏa tại Trung đông bắt đầu từ đầu thế kỷ 20 và chủ yếu là do các công ty của Anh , Hòa lan và Pháp nắm giữ . Quyền lợi của Mỹ chỉ mới có vào đầu những năm 1920 , do người Mỹ càng ngày càng lo cho sự cạn kiệt các nguồn dầu mỏ trong nước và lo sợ sự độc quyền của các nước châu Âu đối với dầu mỏ Trung đông. Khởi đầu các công ty Mỹ chỉ là những người hùn hạp nhỏ với các tổ hợp lớn châu Âu khi mới vào thị trường dầu mỏ Trung đông . Standard Oil of California là công ty Mỹ đầu tiên tham gia nghiêm túc việc thăm dò dầu mỏ . Sau một số cố gắng không đạt mấy kết qủa tại các nước vùng Vịnh , cuối cùng , Standard Oil quay sang Saudi Arabia và vào năm 1930 xin phép thăm dò địa chất tỉnh phía đông . Vua Ibn Saud lúc đầu từ chối yêu cầu này nhưng sau đó đồng ý tiến hành thương thuyết , cúôi cùng dẫn tới thỏa hiệp năm 1933. Hiển nhiên , một trong những yếu tố xui nhà vua thay đổi ý kiến là tình hình suy thoái kinh tế bắt đầu từ năm 1929 , từ đó đã làm cho nền tài chính của vương quốc càng ngày càng lâm vào cảnh sa sút nghiêm trọng .
Chưa đầy 4 tháng sua khi ký kết thỏa hiệp , các nhà địa chất Mỹ đổ bộ lên phía đông Arabia . Đến cuối năm , các nhóm thăm dò đựơc thành lập xong , và năm sau , các toan người Mỹ đã bắt đầu khia thác và xuất cảng được dầu hỏa . Tiến trình phát triển bị gián đọan trong thế chiến thứ 2 nhưng lại tiếp tục khi chiến tranh chấm dứt . Một vài chỉ dẫn cho biết mức độ phát triển qua các con số dầu mỏ được khia thác tại Arabia , tính theo triệu thùng : 1945:21,3 ; 1955: 356,6; 1965: 804,8 ; 1975 : 2.582,5.
Dầu mỏ xuất ra , tiền bạc ào ào chảy vào đã đem lại nhiều sự thay đổi cho vương quốc Saudi , về cơ cấu nội tại và lối sống , cùng với vai trò và ảnh hưởng đối ngọai , cả tại các quốc gia tiêu thụ dầu mỏ và , mạnh hơn nữa , là trong thế giới Hồi giáo . Sự thay đổi có ý nghĩa nhất là ảnh hưởng của học thuyết Wahhabi và vai trò của những kẻ theo học thuyết này. Học thuyết Wahhabi giờ đây là học thuyết chính thức , đựơc thi hành bởi một chính quyền có nhiều ảnh hưởng nhất trong tòan thế giới Hồi giáo - đó là người cai quản 2 thánh địa linh thiêng nhất của đạo Hồi , nơi mà hàng năm có đến hàng triệu tín đồ đạo Hồi trên khắp thế giới đến hành hương và thực hiện các nghi thức và nghi lễ tôn giáo . Trong khi đó , các thầy giảng và giáo sĩ Wahhabit có dứơi tay nguồn tài chính vô hạn , đem ra phân phát để đẩy mạnh và khuyếch trương học thuyết Hồi giáo mới của họ . Ngay cả tại các nước phương Tây tại châu Âu và Mỹ , nơi mà hệ thống giáo dục công lập đã tốt rồi , nhưng để dạy giáo lý Hồi giáo cho những tân tòng và khi các bậc cha mẹ Hồi giáo muốn giáo dục cho con cái một số cơ bản về truyền thống văn hóa và tôn giáo Hồi giáo , thì duy nhất chỉ có các trung tâm truyền bá giáo lý Wahhabi làm việc này . Việc truyền bá giáo lý này được triển khai tại các trừơng tư , các hội thảo tôn giáo , các trừơng học nhà thờ , trại hè , và càng ngày càng nhiều hơn , tại các nhà tù .
Theo ngôn ngữ truyền thống Hồi giáo , madrasa là 1 trung tâm giáo dục kiểu đại học , có nghiên cứu , giảng dạy . Madrasa Hồi giáo cổ điển là tiền thân và trên nhiều mặt cũng là khuôn mẫu cho các trường đại học tổng hợp lớn ở châu Âu thời trung cổ . Theo ngôn ngữ hiện đại , từ madrasa có ý nghĩa tiêu cực ; dùng để chỉ một nơi nhồi nhét sự cố chấp và bạo lực . Lấy một ví dụ để chứng minh là khi nghiên cứu lý lịch họat động của một số người Thổ nhĩ kỳ bị bắt vì tình nghi tham gia vào các động khủng bố . Tất cả bọn họ đều sinh ra và được giáo dục tại Đức , không có người nào từ Thổ nhĩ kỳ . Chính phủ Đức không giám sát việc giáo dục tôn giáo của các nhóm thiểu số. Nhưng chính phủ Thổ lại luôn dè chừng những vấn đề này . Tại châu Âu và Mỹ , do nhà nước không muốn can dự vào các vấn đề tôn giáo , việc dạy giáo lý Hồi giáo ở trường và ngoài nhà trừơng hầu như nhà cầm quyền không hề để mắt tới . Tình hình này rõ ràng là tạo điều kiện cho những kẻ liều lĩnh , cuồng tín và có quá nhiều tiền bạc .
Có lẽ ta có thể diễn tả kết qủa sẽ ra sao bằng 1 ví dụ tưởng tượng . Hãy tưởng tượng là nhóm Ku Klux Klan hoặc tương tự chiếm quyền kiểm sóat hòan tòan bang Texas , chiếm các giếng dầu mỏ cùng với lợi tức từ dầu mỏ , và họ cũng làm như thế , bỏ nhiều tiền ra xây dựng 1 hệ thống các trừơng trung học và cao đẳng trong tất cả thế giới Cơ đốc , nơi nào cũng dán nhản Cơ đốc giáo . Ví dụ tương đương này có phần ít khốc liệt hơn thực tế , bởi vì đa số các nước Cơ đốc đều đứng ra quản lý hệ thống trường công . Tại một số nước Hồi giáo , họ không làm như thế , và các trừơng trung học và cao đẳng do phái Wahhabi bảo trợ là nơi cung cấp một nền giáo dục duy nhất cho các thanh niên Hồi giáo . Bằng cách này , tín đồ Wahhabi mang thông điệp của họ đến các nước theo Hồi giáo và càng ngày càng tăng tại các cộng đồng thiểu số tại châu Âu và Bắc Mỹ . Sinh họat công cọng , giáo dục và thậm chí việc thờ phụng đựơc tổ chức theo khuôn phép Hồi giáo , đều được nhóm Wahhabis tài trọ rộng rãi đến mức kinh ngạc , và như thế phiên bản đạo Hồi mà họ thực hành và rao giảng đều bị chi phối bởi các nguyên tắc và quan điểm của phái Wahhabi . Quyền cai quản các thánh địa và lợi tức từ dầu mỏ đã khiến cho một vùng đất biên địa của nhóm tín đồ cực đoan tại 1 quốc gia xa xôi trở thành 1 trung tâm gây ảnh hưởng trên tòan thế giới ..
Việc khai thác dầu mỏ đã mang lại một số giàu có vô tận mới và cùng với nó là những mối căng thẳng xã hội mới ngày càng trở nên sâu sắc. Trong xã hội cũ , sự cách biệt giữa giàu và nghèo không nhiều , và hệ qủa cũng có chừng mực - một mặt , giữa người giàu và nghèo có những mối liên kết xã hội truyền thống và , mặt khác , do kiểu sống kín đáo trong gia đình của người Hồi giáo . Quá trình hiện đại hóa lại làm cho hố ngăn cách ngày càng rộng ra , phá hủy những mối ràng buộc xã hội , và do các phương tiện truyền thông đại chúng trở nên phổ biến càng làm cho những hình ảnh bất bình đẳng hiển hiện một cách nhức nhối . Tất cả những điều này đã hình thành 1 lớp người mới , dễ nghe theo giáo lý của nhóm Wahhabi và những nhóm có tư tưởng tương tự , trong số đó có nhóm Huynh đệ Hồi giáo tại Ai cập và Syria và nhóm Taliban tại Afghanistan.
Sự giàu có do dầu mỏ cũng đem lại những hệ qủa tiêu cực về chính trị , làm hạn chế sự phát triển của các định chế đại diện cho nhân dân ."Không đóng thuế thì không có đại diện"là 1 bứơc quan trọng trong sự hình thành nền dân chủ phương Tây. Rủi thay , điều ngựơc lại cũng đúng- không có đại diện nếu không đóng thuế. Các chính quyền giàu có nhờ dầu mỏ không cần quốc hội để đặt ra thuế và thu thuế , và không ít khi họ chẳng cần đếm xỉa gì đến công luận . Ngay cả từ công luận cũng chẳngcó mấy ý nghĩa trong những xã hội đó. Không tìm ra đựơc lối thóat nào khác , cho nên những nổi bất bình mới , sôi sục đã tìm đựơc cách biểu thị nơi các phong trào tôn giáo cực đoan.
Hiện nay ta thường gọi những phong trào này là phái chính thống ( fundamentalist). Tên gọi này không được may mắn vì một số lý do . Khởi thủy đó là 1 từ của Tin lành Mỹ , dùng để chỉ một số nhà thờ khác với các nhà thờ thuộc dòng chính phái ở một số điểm . 2 sự khác biệt chính là thần học tự do và sự phê phán kinh thánh , cả 2 đều được coi là có thể phản bác . Thần học tự do đã từng là 1 chủ đề đối với người Hồi giáo trong quá khứ và có thể lại xảy ra trong tương lai . Giáo điều cơ bản của Hồi giáo là kinh Qur’an với từng câu từng chữ đều có tính thần thánh và không thể sai lầm được , và mặc dù có người nghi ngờ về điều này nhưng không ai dám lên tiếng . Những sự khác biệt này không hề giống chút gì với những điều phân biệt giữa phái Hồi giáo chính thống với dòng Hồi giáo chủ đạo , vì vậy từ này có thể gây sai lạc . Tuy nhiên , ngày nay lại trở nên thông dụng , và được dịch nguyên văn sang tiếng Ả -rập , Ba tư và Thổ nhĩ kỳ .
Sự lu mờ của chủ nghĩa tòan -Ả -rập đã làm chủ nghĩa chính thống trở thành một sự lựa chọn hấp dẫn nhất cho những ai nghĩ rằng phải có một cái gì đó tốt hơn , chân thực hơn và mang lại nhiều hy vọng hơn là các chế độ độc tài lạc lõng đang cai trị , và các ý thức hệ phá sản đựơc tuồn từ bên ngoài vào xứ họ . Sau khi tất cả những phương thuốc chính trị và kinh tế , hoặc do ngọai nhập hoặc do sao chép tại chỗ đều thất bại , dẫn tới sự vỡ mộng và căm giận tạo điều kiện cho những phong trào này phát sinh và tồn tại nhờ tình trạng thiếu thốn và bị lăng nhục . Như nhiều người tại Trung đông và Bắc Phi nhận xét , cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội đều được đem thử rồi cùng chịu thất bại ; cà 2 mô hình phưong Tây và phương Đông đều chỉ tạo ra sự nghèo đói và độc tài . Dường như không công bằng khi nói rằng sau khi độc lập , như tại Algeria chẳng hạn , phương Tây đáng bị trách cứ vì các chính sách Stalinist giả tạo của 1 chính phủ chống- phương Tây , vì sự thất bại của của này và sự lạc lõng của cái kia. Nhưng tình cảm của quần chúng không phải hòan tòan sai khi cho rằng thế giới phương Tây và các tư tưởng phương Tây là nguồn gốc chủ yếu của những thay đổi chính đã làm biến chuyển thế giới Hồi giáo trong thế kỷ vừa qua hoặc về sau. Kết cuộc là , phần lớn những nổi căm giận của thế giới Hồi giáo đều nhắm vào phương Tây , vốn được coi là kẻ cựu thù xa xưa của Hồi giáo kể từ khi có những xung đột đầu tiên giữa các Caliph Hồi giáo và các hòang đế Cơ đốc , và chống cả những người chủ trương theo phương Tây , bị coi là công cụ hoặc tòng phạm của phương tây , là kẻ phản bội đức tin và dân tộc của mình .
Phái chủ trương chính thống về tôn gíáo hưởng đựơc nhiều ưu thế so với các ý thức hệ cùng tranh giành . Chủ trương này dễ hiểu đối với cả người Hồi giáo có học và thất học . Học thuyết chính thống đưa ra một tập hợp các chủ đề , khẩu hiệu và biểu tượng hết sức quen thuộc có hiệu qủa trong việc huy động sự ủng hộ và đưa ra được 1 lập trừơng phê phán cái gì sai cũng như đưa ra chương trình cải tạo nó. Các phong trào tôn giáo cũng hưởng được một ưu thế thực tiển khác trong những xã hội giống như xã hội vùng Trung đông và Bắc Phi là những nơi đang đựơc cai trị bởi các chế độ độc đóan nhiều hoặc ít : các nhà độc tài có thể cấm các đảng phái họat động , có thể cấm không cho hội họp –nhưng lại không thể cấm việc thờ phụng công cộng , và nếu có , chỉ giới hạn việc giảng đạo trong mộ chừng mực nào đó .
Kết quả là chỉ còn có các nhóm chống đối tôn giáo mới có nơi hội họp thường xuyên , nơi mà họ có thể tụ tập và tổ chức được 1 mạng lưới nằm ngoài vòng kiểm sóat của nhà nước hoặc ít nhất cũng không bị nắm hòan tòan . Chế độ càng áp bức , thì càng giúp cho nhóm chủ trương chính thống khi tạo cho họ hầu như độc quyền chống đối .
Chủ trương cấp tiến Hồi giáo bằng quân sự không phải mới có. Đã xảy ra nhiều lần kể từ khi có ảnh hưởng của phương tây vào thế kỷ 18, đã từng có nhiều phong trào chống đối nổ ra dưới hình thức quân sự . Cho đến nay , tất cả đều thất bại . Đôi khi , những phong trào này thất bại một cách dễ dàng và tương đối êm thắm vì bị đánh bại và đàn áp , trong trường hợp này họ cũng đựơc coi là thành công vì có người tử vì đạo . Đôi khi họ thất bại chua xót hơn , khi nắm được quyền lực , nhưng lại phải đối đầu với những vấn đề kinh tế và xã hội mà họ không giải quyết được . Điều thường xảy ra là họ lại trở thành kẻ đi áp bức và cũng nực cuời như người bị họ lật đổ .Chính vào giai đoạn này họ có thể trở nên rất nguy hiểm , nói theo ngôn ngữ phương tây , là khi cuộc cách mang chuyển sang giai đọan Napoleon hoặc giai đoạn Stalinit . Với 1 chương trình xâm lăng và bành trứơng , các phong trào này , giống như các đàn anh phái Jacobin và Bolshevik sẽ có ưu thế là sự tiếp tay của những đội quân thứ 5 tại mỗi nước và mỗi cộng đồng mà họ có những tương đồng về văn hóa .
Nói rộng ra , phái Hồi giáo chủ trương chính thống là những người cảm thấy ràng tất cả những rối rắm của thế giới Hồi giáo hiện nay không phải là do hiện đại hóa chưa đủ nhưnglà do hiện đại hóa quá mức , theo họ đó là sự phản bội các giá trị Hồi giáo đích thực . Theo họ , phương thúôc là quay về với Hồi giáo đích thực , bao gồm việc bải bỏ tất cả các luật pháp và những điều vay mượn về mặt xã hội từ phương tây và phục hồi Thánh luật Hồi giáo , shari’a , là luật phù hợp của đất nước . Từ quan điểm này , cuộc chiến cuối cùng không phải dành cho kẻ đột nhập phương tây nhưng là để chó6ng lại tên phản bội theo phương Tây trong nước .Kẻ thù nguy hiểm nhất , theo họ ,là những tên Hồi giáo trá ngụy và phản bội đang ngồi cai trị các quốc gia trong thế giới Hồi giáo , và là nhữn kẻ đã nhập cảnhg cũng như áp đặc lối sống của bọn vô đạo lên nhân dân Hồi giáo .
Điểm này được nêu rõ trong 1 bài viết ngắn của ‘Abd al- Salm Faraq , người Ai cập bị xử tử cùng với đồng bọn vào tháng 4/1982 vì tội danh đã âm mưu và thủ mưu ám sát Tổng thống Sadat . Nhận xét của Faraq cho ta biết rõ thêm về động cơ của hắn :
Cơ sở để bọn đế quốc hiện diện trên các vùng đất Hồi giáo là những tay cầm quyền tương tự . Đứng ra chống bọn chủ nghĩa đế quốc là 1 công việc chẳng hề mang được lợi ích hoặc vinh vang gì , chỉ tốn thời gian vô ích . Bổn phận của chúng ta là tập trung vào sự nghiệp Hồi giáo , đó là phải thiết lập trước hết , luật của Thượng đế trên đất nước chung ta và làm cho tiếng nói của Thượng đế chiếm ưu thế . Không còn gì nghi ngờ là trận chiến đầu tiên của cuộc thánh chiến là việc tước bỏ quyền lãnh đạo của bọn vô đạo và thay thế bằng 1 trật tự Hồi giáo hòan hảo , và từ đó sẽ giải phóng được năng lực của chúng ta .
Trong khỏang thời gian từ lúc Tổng thống Sadat bị mưu sát cho đến lúc bắt đựơc bọn sát thủ , người cầm đầu bọn họ đã đắc thắng la to” Ta đã giết được tên Pharaoh! Ta không hề sợ chết". Theo như cách nhìn nhận của nhiều người phương Tây vào thời đó , nếu dưới mắt các tay sát thủ sai phạm của Sadat là đã ký kết hòa bình với Isael , thì Pharaon là một tên gọi hòan tòan không phù hợp . Rõ ràng là họ không nhắc đến Pharaon như sách giáo khoa Ai cập hiện nay , là người thể hiện đựơc sự vĩ đại và vinh quang của Ai cập cổ đại . Nhưng đó là Pharaon trong sách Exodus , kẻ mà theo Qur’an , là 1 tên độc tài vô đạo đã áp bức dân của Thượng đế . Không còn gì nghi ngờ khi Usam bin Ladin đã gọi Tổng thống Bush theo nghĩa này là Pharaon của thời đại hiện nay. Vào thời kỳ xảy ra Exodus , Con dân Israel là dân của Chúa . Tín đồ Hồi giáo hiện nay không công nhận nhà nước Israel hiện tại là kế thừa hợp pháp của Con dân Israel cổ đại - là Banu Israil trong kinh Qur’an - và những kẻ ám sát Sadat chắc chắn không công nhận sự dàn xếp của ông ta với nhà nước này. Nhưng về sau , khi tra hỏi các tay giết người và đồng phạm mới rõ là theo họ , hòa bình với Israel chỉ là 1 hiện tượng tương đối nhỏ - là 1 triệu chứng , không phải là nguyên nhân của việc phạm trọng tội đã rời bỏ niềm tin vào Thượng đế , đàn áp dân của Chúa và răm rắp theo khuôn mẫu của kẻ thù .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét