Chương VII
Sự ra đời của chính sách khủng bố
Phần lớn các tín đồ Hồi giáo không phải là người theo phái chính thống và phần lớn những người chính thống không phải là kẻ khủng bố , nhưng đa số những tên khủng bố ngày nay đều là người Hồi giáo và họ hãnh diện xưng mình là người Hồi giáo . Điều này cũng dễ hiểu , người Hồi giáo than phiền rằng khi các phương tiện truyền thông cho rằng các phong trào và hành động khủng bố mang tính"Hồi giáo" và đặt câu hỏi tại sao các phương tiện truyền thông lại không gọi các tay khủng bố và hành động khủng bố của người Ireland và xứ Basque là"Cơ đốc". Câu trả lời đơn giản và rõ ràng - bởi vì họ không cho mình là như thế . Sự than phiền của người Hồi giáo khá dễ hiểu , nhưng nên hướng sự than phiền đó về phía những kẻ tạo ra tin tức , thay vì về phía những người tường trình . Usama bin Ladin và các đệ tử Al-Qa’ida của ông ta có thể không đại diện cho đạo Hồi , và nhiều lời phát biểu và hành động của họ mâu thuẫn hòan tòan với các nguyên tắc cơ bản và giáo lý của Hồi giáo , nhưng tất cả những điều trên lại do chính nền văn minh Hồi giáo sản sinh ra , cũng như Hitler và chủ nghĩa Quốc xã phát sinh từ chính thế giới Cơ đốc ( Christendom ) , và chúng cũng phải được xét trong chính khung cảnh văn hóa , tôn giáo và lịch sử .
Có nhiều hình thái cực đoan Hồi giáo thịnh hành hiện nay. Được biết nhiều nhất là nhóm cấp tiến có chủ trương lật đổ là Al-Qa’ida và những nhóm tương tự tại các nước Hồi giáo ; nhóm chủ trương chính thống ưu tiên ( pre-emptive ) của chế độ Saudi và cuộc cách mạng nhằm thay đổi định chế của tầng lớp lãnh đạo đang cầm quyền tại Iran . Tất cả các nhóm này đều có 1 điểm chung đó là có nguồn gốc Hồi giáo , nhưng một số lại đi chệch rất xa nguồn gốc này .
Tất cả các nhóm cực đoan khác nhau đều thần thánh hóa hành động của họ thông qua cách trích dẫn đầy đạo lý trong bản văn Hồi giáo , nhất là kinh Qur’an và các truyền thuyết về Đấng tiên tri , và tất cả 3 nhóm đều được cho mình là chân thực hơn , thuần khiết hơn , trong sáng hơn và sát với Hồi giáo hơn so với hình thái đạo Hồi đang được đại đa số những người Hồi giáo thực hành và được phần lớn , tuy không phải là tất cả , giới lãnh đạo tôn giáo chuẩn nhận .Tuy nhiên , những nhóm này lại tùy nghi lựa chọn và diễn giải những bản văn thiêng liêng. Ví dụ , khi nghiên cứu những lời dạy của Đấng tiên tri , họ không sử dụng các phương pháp được thử thách qua thời gian do các nhà luật học và thần học phát triển để kiểm định tình chính xác và chân thực của các truyền thuyết truyền khẩu , thay vào đó họ chấp nhận hay gạt bỏ ngay cả những bản văn thiêng liêng tùy theo nội dung có phù hợp hoặc mâu thuẩn với lập trường hiếu chiến và giáo điều của họ hay không . Một số còn đi xa hơn nữa đòi "hủy bỏ" hoặc"thủ tiêu"một số vần thơ trong kinh Qur’an . Lý luận đưa ra để biện minh cho điều này là những vần thơ trên được mặc khải vào những năm đầu khi Đấng Tiên tri bắt đầu sứ mệnh của mình cho nên có thể được thay thế bằng những mặc khải sau này , có thể là vì chín chắn hơn.
Một ví dụ minh họa cho những sự chệch hứơng là sắc lệnh tôn giáo ( fatwa) nổi tiếng do Ayatollah Khomeini đưa ra vào ngày 14 tháng 2/1989 để chống lại nhà văn Salman Rushdie vì ông này viết quyển sách Những vần thơ quỉ . Trong fatwa , Ayatollah Khomeini thông báo"cho tất cả các tín đồ Hồi giáo mộ đạo trên thế giới rằng dòng máu của tác giả quyển sách này… quyển sách đã được biên sọan , in ấn và xuất bản đều chống lại đạo Hồi , chống Đấng tiên tri và kinh Qur’an , cũng như những ai tham gia vào việc xuất bản dù biết rõ nội dung quyển sách , đều được coi là phải trả giá vì hành động của mình . Ta kêu gọi tất cả các tín đồ Hồi giáo phải giết chúng cho nhanh , ở bất cứ nơi nào gặp được chúng , để cho không còn có kẻ nào dám xúc phạm đến tính thiêng liêng của Hồi giáo . Ai hy sinh khi thực hiện điều này sẽ được coi là tử vì đạo"Để ứng trước cho phần thưởng trên thiên đàng , 1 quĩ từ thiện tại Tehran treo giải thưởng 20 triệu tuman ( khỏang 3 triệu USD thời đó theo giá chính thức , tương ứng với 170.000 USD giá chợ đen ) cho người Iran , hoặc 1 triệu USD cho người nước ngoài nào giết được Salman Rushdie . Vài năm sau đó , quĩ trên có tăng thêm tiền thưởng , tuy tin này không được xác nhận.
Dĩ nhiên là , đối với nhiều độc giả không nắm vấn đề tại châu Âu cho rằng "ban bố 1 fatwa" cũng tương đương với việc "đưa ra 1 hợp đồng"- tức là nhắm vào 1 nạn nhân , hứa thưởng bằng tiền khi giết được . Cũng giống như madrasa , từ fatwa , theo cách hiểu thông thường trên thế giới , có ý nghĩa hòan tòan tiêu cực . Trên thực tế , đây là 1 điều cực kỳ vô lý .Fatwa là 1 từ kỹ thuật trong luật học Hồi giáo để chỉ 1 ý kiến về luật hoặc việc áp dụng 1 điểm nào của luật . Trong shari’a , fatwa tương đương với responsa prudentium của luật La mã . Nhà luật học Hồi giáo được phép ban bố 1 fatwa được gọi là mufti , đây là 1 phân từ chủ động ( active participle ) có cùng gốc từ . Khi sử dụng 1 fatwa để kết án tử hình và chiêu mộ kẻ giết người , chính vị Aytollah này đã di chệch khá xa chuẩn mực Hồi giáo .
Sự chệch hứơng này không những nằm ở phán quyết và sự tuyên án , mà còn ở ngay bản chất của lời buộc tội . Xúc phạm đến Đấng tiên tri - là lời buộc tội dành cho Salman Rushdie - chắc chắn là 1 vi phạm theo luật Hồi giáo , và các luật gia Hồi giáo thảo luận khá cặn kẻ về lời cáo buộc này . Hầu như tất cả các ý kiến thảo luận đều tập trung vào vấn đề một người dân không theo đạo Hồi sống tạị 1 nước Hồi giáo và người này xúc phạm đến Đấng tiên tri . Các luật gia chú ý nhiều đến định nghĩa thế nào là một sự vi phạm , luật làm chứng và hình phạt thích hợp . Họ đều ái ngại rằng những lời buộc tội dành cho sự vi phạm này không nên được sử dụng như là 1 công cụ để trả thù riêng , và nhấn mạnh cần phải xem xét cẩn thận các chứng cứ trước khi tuyên án . Đa số cho rằng hình thức đánh đòn bằng roi và giam giữ có thời hạn là đủ để trừng phạt - mức độ đánh đòn bằng roi nhiều hay ít và thời gian bị giam phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của sai phạm . Khó mà nghĩ đến trừơng hợp 1 tín đồ Hồi xúc phạm đến Đấng tiên tri và thật ra cũng rất hiếm gặp . Nếu có, thì hành động này tương ứng với sự phản đạo .
Đây là 1 lời buộc tội đặc biệt chống lại Salman Rushdie . Phản đạo là 1 tội trọng theo luật Hồi giáo , đối với đàn ông đây là tội chết .Nhưng nên nhớ là ở đây đề cập đến luật . Luật pháp Hồi giáo là 1 hệ thống luật và tư pháp , không phải chỉ có treo cổ và khủng bố . Luật này đề ra các qui trình theo đó 1 người bị tố cáo vi phạm sẽ được mang ra xét xừ , đối mặt với nguyên cáo , và có cơ hội tự bào chữa . Thẩm phán theo đó sẽ đưa ra phán quyết , và nếu thấy người bị tố cáo có tội , sẽ tuyên án .
Tuy nhiên cũng còn có 1 quan điểm khác , do một thiểu số các luật gia chủ trương , cho rằng một tín đồ Hồi giáo xúc phạm đến Đấng tiên tri là 1 lỗi rất nặng , phải trực tiếp hành hình ngay , và có thể , đúng ra là phải , bỏ qua tất cả các thủ tục buộc tội , xét xử , và kết án . Quan điểm này căn cứ theo 1 lời dạy được gán cho chính Đấng tiên tri nói ra , nhưng chưa được công nhận rộng rãi là đúng như vậy :’ Nếu có kẻ lăng mạ ta , tín đồ Hồi giáo nào nghe được đều phải giết hắn ngay". Thậm chí trong số các nhà luật học chấp nhận tính chân thực của lời dạy này , cũng có sự bất đồng . Một số người cho rằng cần có một số hình thức thủ tục hoặc thẩm quyền , và nếu không được phép, thì việc hành quyết không qua thủ tục chỉ là mưu sát và đã là mưu sát tức là phạm tội cần phải xử . Những người khác cho rằng lời dạy như được chép lại đã chỉ rõ rằng việc hành quyết ngay , bỏ qua thủ tục dành cho kẻ phạm thánh không những hợp với luật mà còn là 1 điều bắt buộc , và ai mà không thực hiện theo lời dạy này , thì coi như chính họ cũng phạm lỗi . Thậm chí những thẩm phán cổ điển theo nhóm cực đoan và nghiêm khắc nhất chỉ đòi hỏi 1 tín đồ Hồi giáo phải giết kẻ nào xúc phạm đến đấng tiên tri khi chính bản thân mình nghe thấy . Họ không nói gì đến việc thuê người đi giết vì nghe qua người khác xúc phạm đến Đấng tiên tri tại 1 đất nước khác xa xôi .
Việc thần thánh hóa hành động giết người nêu trong fatwa của Khomeini là 1 hình thức cao hơn trong việc thực hiện – và tôn sùng - việc ám sát liều chết.
Nếu ta nghiên cứu tài liệu lịch sử , ta sẽ thấy phương cách tiến hành chiến tranh của Hồi giáo không khác nhiều với phương cách của người Cơ đốc , hoăc của người Do thái trong những thời kỳ rất xa xưa và thời kỳ rất cận đại khi sự lựa chọn này mở ra trước mặt họ . Trong lúc người Hồi giáo , có lẽ thường xuyên hơn so với người Cơ đốc , tuyên chiến với tín đồ của các tôn giáo khác nhằm đưa họ vào quĩ đạo của Hồi giáo , người Cơ đốc – không tính đến trường hợp các cuộc Thập tự chinh - có khuynh hướng tham gia các trận chiến đấu nội bộ tôn giáo để chống lại những kẻ ly giáo hoặc kẻ theo dị giáo . Còn người Hồi giáo , hiển nhiên là căn cứ theo những hành động chínhtrị và quân sự của người sáng lập , sẽ chọn 1 quan điểm thực tiển hơn là những gì được ghi trong sách Phúc âm về các mối liên hệ xã hội và nhà nước . Quan điểm của họ gần với quan điểm được ghi trong các sách thuộc Cưu Ước , và các học thuyết về việc trừng phát người Amalekites , hơn là với quan điểm của Đấng Tiên tri và của Phúc âm . Người Hồi giáo không được dạy là phải chìa má trái nếu đã bị tát má phải , hoặc rèn lưỡi gươm thành lưỡi cày và rèn giáo thành kéo tỉa cây (Isaiah 2:4) . Tuy nhiên , những lời giáo huấn này không cản được người Cơ đốc gây ra một lọat các cuộc chiến đẩm máu bên trong thế giới Cơ đốc và chiến tranh xâm lược ra nước ngoài.
Điều này tạo ra 1 vấn đề lớn hơn liên quan đến thái độ của tôn giáo đối với bạo lực và vũ lực, và nhất là đối với hành vi khủng bố .Tín đồ của nhiều giáo phái có lúc viện dẫn đến tôn giáo khi ra tay thực hiện việc giết người , lẻ tẻ hoặc hàng lọat . Thậm chí có 2 từ phát xuất từ các phong trào như thế từ các tôn giáo phương Đông đã đi trở thành tiếng Anh : thug ( kẻ sát nhân ) từ Ấn độ , và assassin( kẻ ám sát ) từ Trung đông , cả 2 từ này đều gợi nhớ đến những giáo phái cuồng tín tôn thờ hành động đi giết những ai mà họ xem là kẻ thù của niềm tin của mình
Thực hành và sau đó là lý thuyết về hành động ám sát trong thế giới Hồi giáo xuất hiện từ rất sớm , từ các cuộc tranh giành quyền lãnh đạo cộng đồng Hồi giáo . Trong số 4 vị Caliph đầu tiên của đạo Hồi , thì 3 vị đã bị ám sát , vị thứ 2 do 1 tên nô lệ Cơ đốc căm giận giết chết , vị thứ 3 và thứ 4 do những tín đồ sùng đạo nổi lọan giết chết vì những kẻ này tự cho mình là đao phủ thực hiện ý muốn của Thượng đế . . Vấn đề trở nên bức xúc vào năm 656 C.E khi các phiến lọan Hồi giáo ám sát ‘Uthman , vị Caliph thứ 3. Cuộc chiến đầu tiên trong 1 lọat các nội chiến là về vấn đề liệu những kẻ giết người đã làm xong hoặc xem thường điều răn của Chúa . Luật và truyền thống Hồi giáo ghi rất rõ ràng về nhiệm vụ phải phục tùng người lãnh đạo Hồi giáo . Nhưng họ cũng trích dẫn 2 câu nói theo họ là của Đấng Tiên tri :”Không được phục tùng gây tội ác"và" Không được phục tùng kẻ nào chống lại Đấng Tạo hóa : . Nếu nhà cai trị ra lệnh trái với luật của Thượng đế , thế thì không cần phải tuân phục nũa . Ý niệm giết kẻ độc tài - cách lọai bỏ kẻ độc tài được coi là hợp lệ - không phải do Hồi giáo sáng tác ; mà chính đã có từ rất xa xưa , đều có ở người Do thái , Hy lạp , và La mã , và những ai thực hiện hành động này thường được ca ngợi như những bậc anh hùng.
Các thành viên của giáo phái Hồi giáo , phái Ám sát ( assassin đi từ gốc Ả -rập Hashishiyya ) , họat động mạnh ở Iran , và sau đó ở Syria từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 13 , dường như là những người đầu tiên đã chuyển đổi 1 hành động được đặt theo tên của họ sang thành 1 hệ thống và 1 ý thức hệ . Trái với sự tin tưởng thông thường , các nỗ lực của họ trước tiên không nằm vào các chiến binh Thập tự chinh nhưng là để chống lại các nhà lãnh đạo Hồi giáo , những người mà theo họ là bọn sóan ngôi vô đạo .Về mặt này , bọn Ám sát đúng là bậc tiền bối thực sự của những tên được gọi là khủng bố Hồi giáo ngày nay , bởi vì một số trong nhóm này công khai bày tỏ quan điểm như thế. Cái tên Hashishiyya , có nghĩa là người hít cần sa ( hashish ) , vốn do các kẻ thù Hồi giáo của họ đặt cho . Còn chính họ , họ gọi mình là fidayeen , từ tiếng Ả -rập fida’i - người sẵn sàng hy sinh cuộc sống cho sự nghiệp.
Sau khi phái ám sát bị đàn áp và tiêu diệt vào thế kỷ 13 , cái tên này không còn được sử dụng . Cho đến giữa thế kỷ 19, từ này mới được một nhóm mưu phản người Thổ đem ra sử dụng lại , nhóm này âm mưu lật đổ và , nếu có thể được , ám sát vua Sutan . Âm mưu bị lộ , các tay chủ mưu bị ngồi tù . Từ này tái xuất hiện tại Iran , do nhóm gọi là Fida’iyan –i Islam , tức là fida’i của Islam , là 1 nhóm khủng bố tôn giáo chính trị tại Tehran . Nhóm này từ khi bắt đầu họat động năm 1943 , cho đến lúc bị đàn áp năm 1955 , đã tiến hành một số vụ mưu sát chính trị . Sau khi ám sát Thủ tướng Iran không thành công vào tháng 10 năm 1955, họ đều bị bắt , truy tố và những kẻ đầu đảng bị xử tử . Từ những năm 1960 trở đi , từ này được phái chủ chiến PLO ( Tổ chức Giải phóng Palestin) làm sống lại , để chỉ những tay tham gia họat động khủng bố trong tổ chức Palestin.
Về cả 2 mặt , việc chọn lựa vũ khí và chọn ra nạn nhân , phái Ám sát khác rất nhiều với những người kế tục hiện nay. Đối tượng của ho luôn luôn là 1 người , là lãnh đạo cao cấp về chính trị , quân sự , tôn giáo , kẻ được coi như là nguồn gốc của cái ác . Chỉ có người này , và chỉ một mình người này , mới bị giết. Hành động này không phải là khủng bố theo nghĩa thông dụng hiện nay nhưng đúng ra chỉ là ám sát có mục tiêu . Vũ khí luôn luôn chỉ là chiếc dao găm . Sát thủ không thèm sử dụng thúôc độc , nỏ và những vũ khí khác có thể sử dụng từ xa , và sát thủ cũng không mong -hoặccó ý định , hoặc ước muốn - được sống sót sau khi thực hiện nhiệm vụ mà khi làm xong , hắn ta sẽ được thưởng công trên Thiên đàng. Nhưng dù với bất cứ tình huống nào , họ cũng không hề tự sát , mà chỉ chết trong tay kẻ thù . Cuối cùng những căn cứ họat động mạnh của họ tại Iran và Syria bị nhóm quân sự phá hủy . Cũng có nhiều khả năng là nhóm ám sát hiện đại một ngày nào đó cũng sẽ bị đánh bại , nhưng với nhiều khó khăn và lâu dài . Các tay Ám sát thời trung cổ thuộc nhóm cực đoan , cách biệt rất xa với dòng Hồi giáo chủ đạo . Nhưng với những kẻ bắt chứơc này nay ,điều này không còn đúng .
Thế kỷ 20 đã làm sống lại những họat độngnhư thế tại vùng trung đông , dưới nhiều hình thức và các mục đich khác nhau và chính họat động khủng bó cũng đã trải qua nhiều giai đoạn . Vào những năm cuối cùng của đế quốc Anh , nước Anh đế quốc đối diện với nhiều phong trào khủng bố tại các thuộc địa vùng Trung đông , nơi có 3 nền văn hóa : người Hy lạp tại Cyprus , người Do thái tại Palestin, và người Ả -rập tại Aden . Động cơ của 3 nhóm này là chủ nghĩa quốc gia , hơn là vì tôn giáo . Dù rằng họ rất khác nhau về hòan cảnh xuất phát và tình huống chính trị , nhưng về chiến thuật họ lại có những điểm tương đồng cơ bản . Mục đích của họ là thuyết phục đế quốc thấy rằng không đáng phải đổ máu để bám víu khu vực này . Phươngpháp của họ là tấn công các cơ sở quân sự , và trong chừng mực , nhân viên và cơ sở hành chính . Tất cả 3 nhóm đều họat động trong phạm vi lãnh tổ của mình và thường thì họ cố tránh gây thương vong cho người không liên can . Cả 3 nhóm đều đạt được mục tiêu mong muốn của họ .
Đối với bọn khủng bố kiểu mới , việc tàn sát thường dân vô tội và không liên can không phải là "tổn thất phụ ( collateral damage ) mà là mục tiêu chính . Điều không tránh khỏi là, phản công chống lại những tên khủng bố - có bao giờ chúng mặc đồng phục - lại cũng nhắm vào các thường dân.Chính sự mù mờ này đã giúp rất nhiều cho bọn khủng bố và những kẻ có cảm tình với chúng .
Nhờ sự phát triển rất nhanh của các phương tiện truyền thông , nhất là qua truyền hình , những hình thái họat động khủng bố gần đây không nhắm vào các mục tiêu kẻ thù chuyên biệt và giới hạn nhưng nhắm vào dư luận tòan cầu . Mục tiêu chủ yếu của chúng không phải là nhằm đánh bại hoặc thậm chílà suy yếu kẻthù về mặt quân sự , nhưng để cho ai cũng biết đến họ và tạo ra sự sơ hãi – đó là 1 chiến thắng về mặt tâm lý . Hình thức họat động khủng bố tương tự cũng được một số nhóm tại Đức , Ý , Tây ban nha và Ireland áp dụng . Tổ chức giải phóngPalestine(PLO) nằm trong nhóm thi hành theo kiểu này thành công và bền bỉ nhất .
PLO được thành lập năm 1964 nhưng đến năm 1967 mới đóng vai trò quan trọng , sau khi quân đội khối Ả -rập bị thất trận trong cuộc chiến - 6 -ngày . Chiến tranh qui ứơc thất bại , đây là lúc thử tìm phương pháp khác . Mục tiêu trong hình thức đấu tranh vũ trang này không phải là các cơ sở quân sự hoặc các cơ quan chính phủ vốn được bảo vệ cẩn mật , nhưng lại là những nơi công cọng , có đông nggười tụ tập , đa số là dân thường và các nạn nhân không nhất thiết phải có liên quan đến kẻ thù chính thức . Một số ví dụ của chiến thuật này như , vụ cướp 3 máy bay vào năm 1970 – 1 của Thụy sĩ , 1 của Anh , và 1 của Mỹ - 3 chiếc này đều được đưa tới Amman ; vụ mưu sát các vận động viên Israel tại Thế vận hội Munich ; vụ chiếm đóng tòa Đại sứ Saudi Arabia tại Khartoum và giết chết ở đây 2 nhà ngoại giao Mỹ và 1 của Bỉ ; vụ cướp tàu du lịch Achille Lauro của Ý vào năm 1985 đã giết chết một hành khách tàn tật . Những vụ tấn công khác nhắm vào trường học , nơi mua sắm , discotheque , và thậm chí còn nhắm vào các khách sắp hàng chờ tại các phi trừơng châu Âu . Những họat động này cùng với nhiềuchiến dịch khác do PLO thực hiện đã đạt được mục tiêu trước mắt của họ khá thành công - đưa được các hàng tin dòng đầu trên các báo và trên màn ảnh nhỏ . Đôi khi các họat động này dành được sự ủng hộ to lớn từ những nơi không ngờ tới và làm cho các thủ phạm đóng vai trò quan trọng trong những căng thẳng quốc tế . Có điều hơi ngạc nhiên là có kẻ khác được khuyến khích làm theo gương của họ. Bọn khủng bố Ả -rập của những năm thuộc thập niên 1970 và 1980 tuyên bố thẳng thừng là họ phát động chiến tranh vì lý tưởng quốc giaPalestine hoặc Ả -rập , chứ không phải vì Hồi giáo . Thật vậy , một tỉ lệ khá lớn các nhà họat động và lãnhđạo PLO là người Cơ đốc.
Nhưng dù họ có thành công về mặt truyền thông , PLO lại không đạt được các kết qủa đáng kể tại nơi mà họ quan tâm - tạiPalestine . Tại các quốc gia Ả -rập , trừ Palestine, các phái theo chủ nghĩa dân tộc đều đạt được mục đích - đó là làm cho các nhà cai trị nước ngọai bại trận và cuốn xéo , là thành lập được chủ quyền quốc gia với sự cai trị của các nhà lãnh đạo dân tộc .
Có lúc , những từ như tự do và độc lập được coi như ít nhiều đồng nghĩa và thay thế cho nhau được . Tuy nhiên , qua kinh nghiệm buổi đầu sau khi đạt được độc lập lại cho thấy rằng đây là 1 sai lầm buồn . Độc lập và tự do rất khác nhau ,và lắm khi đạt được cái này ; lại có nghĩa là chấm dứt cái kia , và sự thay chỗ cho các vị chúa tễ ngoại bang bằng 1 bạo chúa trong nước , lão luyện hơn, gần gũi hơn , và độc đóan không giới hạn .
Sự cần thiết có 1 lời giải thích mới cho biết cái gì sai , và có chiến lược để uốn nắn càng ngày càng trở nên bức thiết và sôi sục . Cả 2 vấn đề đều được tìm thấy , trong tình cảm và bản sắc tôn giáo . Sự lựa chọn này không mới . Vào nửa đầu thế kỷ 19 , khi các đế quốc châu Âu tiến công vào nhiều vùng đất Hồi giáo, thì sự kháng cự đáng kể nhất đối với sự tiến công này nổ ra dưới chiêu bài tôn giáo . Người Pháp tại Algeria , người Nga tại vùng Caucase , người Anh tại Ấn độ , tất cả đều phải đối mặt với những vụ nổi dậy lớn vì tôn giáo , những vụ này chỉ bị dẹp tắt sau những cuộc đàn áp dài ngày và đầy gian khổ.
Một giai đọan mới trong việc huy động tôn giáo bắt đầu bằng 1 phong trào gọi là chủ nghĩa tòan Hồi giáo ( pan-Islamism) theo ngôn ngữ phương Tây . Manh nha vào những năm thuộc thập kỷ 1860 và 1870 , phong trào này học hỏi phần nào tấm gương của người Đức và người Ý đã chiến đấu thành công thống nhất đất nước trong những năm đó . Những người Hồi giáo cùng thời khi bắt chứơc tấm gương trên chỉ nhận mình là tìn đồ đạo Hồi và đã định nghĩa mục tiêu chiến đấu của mình bằng những từ ngữ tôn giáo và cho cộng đồng hơn là chủ nghĩa dân tộc và ái quốc , là những từ vẫn còn xa lạ vào lúc ấy . Nhưng với sự bành trứơng của ảnh hưởng và giáo dục phương Tây , những ý tưởng chủ nghĩa quốc gia và ái quốc này bén rễ và một thời gian sau chi phối cả 2 mặt chiến đấu và tư tưởng tại các nước Hồi giáo . Tuy nhiên , về tôn giáo , bản sắc và sự trung thành vẫn còn được cảm nhận sâu đậm và được thể hiện trong nhiều phong trào tôn giáo , nhất là nhóm Huynh đệ Hồi giáo . Khi các ý thức hệ thế tục bị thất bại một cách tệ hại , thi những phong trào tôn giáo trên lại đóng vai trò quan trọng mới , đứng ra chiến đấu và nhiều chiến sĩ của các phong trào này vốn là các nhà họat động theo chủ nghĩa dân tộc đã thất bại .
Đối với nhóm chủ trương chính thống cũng như nhóm theo chủ nghĩa dân tộc , các chủ đề về lãnh thổ đều quan trọng nhưng dưới 1 hình thức khác, nan y hơn. Lấy ví dụ , đối với nhóm chính thống nói chung , không có hòa bình hoặc nhân nhượng gì với Israel cả , bất cứ sự nhượng bộ nào cũng là 1 bước để tiến tới giải pháp cuối cùng thực sự - đó là sự xóa sổ nhà nước Israel ,trả lại đất đất cho ngườiPalestineHồi giáo , những người chủ thật sự , còn đối với kẻ xâm lăng , chỉ có cái chết hoặc trục xuất . Tuy nhiên , điều này không có nghĩa là đã làm thỏa mãn các yêu cầu của nhóm chính thống, yêu cầu của họ bao gồm mọi vùng đất tranh chấp khác - thậm chí khi chiếm được cũng chỉ là 1 phần trong cuộc chiến đấu lâu dài nhằm thống trị tòan thế giới.
Chiến thuật cũ được giữ lại phần lớn , phần có tính mạnh bạo trội hơn nhiều .Khi chiến thắng cũng như khi thất bại , bọn khủng bố tôn giáo áp dụng có cải tiến những phương pháp do các nhà họat động theo chủ nghĩa dân tộc vào thế kỷ 20 đưa ra , nhất là việc họ không hề động lòng khi tàn sát những người vô tội . Sự dững dưng này đạt đến mức độ mới trong chiến dịch khủng bố do Usama bin Ladin t phát động vào đầu thập niên 1990 . Ví dụ đầu tiên là vụ đánh bom 2 tòa đại sứ Mỹ tại Đông Phi vào năm 1998 . Để giết 12 nhà ngọai giao Mỹ , các tên khủng bố không do dự tàn sát trên 200 người Phi , đa số là tín đồ Hồ giáo , tình cờ có mặt gần đó . Trong số báo ngay sau những vụ tấn công này , tờ báo tiếng Ả -rập Al-Sirat al- Mustaqim của nhóm chính thống , xuất bản tại Pittsburg, Pennsylvania , bày tỏ sự đau buồn đối với các"tử vì đạo", những người hy sinh tính mạng trong các hiến dịch trên và còn đăng tên những kẻ này theo danh sách được văn phòng Al Qa’ida tại Peshawa , Pakistan cung cấp. Người viết bày tỏ hy vọng"rằng Thượng đế sẽ… cho chúng ta gặp họ trên thiên đàng". Sự coi rẻ mạng người ởmức độ cao hơn là cơ sở cho những hành động thực hiện tại New York và Washington vào này 11 tháng 9 năm 2001.
Một khuôn mặt đáng chú ý trong các chiến dịch trên là kẻ khủng bố liều chết . Đây là 1 sự phát triển mới . Những kẻ khủng bố theo chủ nghĩa dân tộc của thập niên 1960 và 1970 thường không để mình cùng chết với nạn nhân mà bố trí tấn công từ xa . Nếu rủi có bị bắt , tổ chức của họ thường cố gắng , đôi khi thành công , tổ chức giải cứu bằng cách bắt con tin và hăm dọa sẽ giết hoặc làm hại con tin . Những sát thủ vì động cơ tôn giáo , nhất là nhóm Ám sát , không sợ chết khi làm nhiệm vụ nhưng họ không hề tự sát . Cũng gặp tình huống này với các binh sĩ con nít người Iran trong trậnchiến 1980-1988 chống lại Iraq, bọn chúng tay chỉ cầm 1 quyển sổ thông hành lên thiên đường , băng qua bãi mìn , để dọn đường cho quân đội chính qui .
Có 1 kiểu mới khi thực hiện nhiệm vụ tự sát theo đúng nghĩa của từ này dường như được các tổ chức tôn giáo như Hamas và Hiabullah đưa ra đầu tiên , từ năm 1982 trở đi khi tiến hành một số vụ như thế tạiLiban và Israel. Họ tiếp tục trong súôt thập niên 1980 và 1990 , tạo tiếng vang đến các vùng khác , như tại đông Thổ nhĩ kỳ , tại Ai câp , tại Ấn độ , và tại Sri Lanka . Theo cáctin tức có được , dường như những ứng viên được chọn thực hiện các nhiệm vụ này , trừ vài ngọai lệ , đều là nam thanh niên , ít tuổi , nghèo , xuất thân từ các trại tị nạn. Họ nhận được 2 phần thưởng -một sau khi chết , được hưởng ân phứơc trên thiên đang ,được mô tả cụ thể ; một trên đời này , là phần thưởng vật chất , tiền bạc cho gia đình . Một cải tiến đáng chú ý là sử dụng phụ nữ để đánh bom liều chết- do nhóm khủng bố người Kurd tại Thổ nhĩ kỳ năm 1996-1990 và tạiPalestine từ tháng giêng 2002 .
Không giống như các chiến binh thần thánh hoặc ám sát thời trung cổ , là những người sẵn sàng chịu chết trong tay kẻ thù khi bị bắt , những kẻ khủng bố liều chết chết bởi chính bàn tay của mình . Điều này đặt ra một câu hỏi quan trọng về giáo lý Hồi giáo . Các sách luật Hồi giáo nói rất rõ về đề tài tự sát . Đây là 1 trọng tội và sẽ bị trừng phát dưới hỏa ngục đời đời dưới dạng nếu anh đã tự sát the kiểu nào thì sẽ bị trừng phạt theo kiểu đó . Những dòng sau đây , căn cứ theo lời truyền miệng của Đấng tiên tri , làm rõ điều này :
Đấng tiên tri nói : kẻ nào tự giết mình bằng dao sẽ phải chịu hành hình bằng lưỡi dao đó trong lửa hỏa ngục.
Đấng tiên tri cũng nói : kẻ nào treo cổ tự sát sẽ phải chịu treo cổ dưới đại ngục ; kẻ nào đâm tự đâm mình sẽ phải tự đâm mình dưới địa ngục … Kẻ nào nhảy xuống núi để tự tử sẽ phải nhảy vào hỏa ngục đời đời . kẻ nào uống thuốc độc tự sát sẽ phải tự mình mang theo thuốc độc để uống trong địa ngục đờiđời … kẻ nào tự sát bằng cách nào thì sẽ bị hành hạ bằng cách đó ở dưới địa ngục . Kẻ nào tự tử bằng cách nào trên đời này sẽ bị hành hạ bằng cach đó trong ngày sống lại".
Những người có thẩm quyền đầu tiên phân biệt rõ giữa việc đối diện cái chết trong tay kẻ thù và chết bởi chính tay mình . Có 1 truyền thuyết rất xa xưa về hình thức gọi là hadith quasi , tức là lời của chính Thượng đế do Đấng tiên tri trích dẫn , cho thấy 1 ví dụ điển hình . Đấng tiên tri có mặt khi một người tự kết liễu đời mình vì quá đau đớn do bị thương rất nặng khi tham gia thánh chiến . Do vậy Thượng đế phán"kẻ tôi tớ của ta đã qua mặt ta khi tự tay lấy đi linh hồn của hắn ; vì thế hắn sẽ không được lên thiên đàng" Cũng theo một truyền thuyết xa xưa khác , Đáng tiên tri từ chối đọc kinh cầu nguyện trước thân xác của 1 người bị giết bởi chính bàn tay của mình .
2 đặc điểm nổi bật trong các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 và những hành động tương tự khác : sự sẳn sàng tự sát của các thủ phạm và tính tàn nhẫn của những kẻ sai phái họ , bao gồm kẻ được giao nhiệm vụ lẫn với vô số các nạn nhân . Liệu những đặc điểm này có mặt nào được coi là phù hợp với đạo Hồi ?
Câu trả lời rõ ràng là không .
Sự giết chóc nhẫn tâm hàng ngàn người tại Trung tâm thương mại thế giới (WTC ) bao gồm nhiều người không phải là người Mỹ , trong số đó có nhiều tín đồ đạo Hồi đến từ các quốc gia Hồi giáo , không hề được biện minh bởi luật pháp hoặc học thuyết Hồi giáo và không hề có tiền lệ trong lịch sử Hồi giáo . Thực vậy , không có mấy hành động mang đầy cái ác một cach cố ý và bừa bãi như thế trong lịch sử nhân lọai . Đó không những chỉ là tội ác đối với nhân lọai và chống lại văn minh ; mà đó cũng là những hành động – theo quan điểm Hồi giáo - có tính báng bổ , đối với những kẻ nhúng tay vào các tội ác như thế lại cho rằng việc làm của mình nhân danh Thượng đế , Đấng tiên tri và lời dạy của người .
Nhiều người Ả -rập và tín đồ Hồi giáo bị sốc và kinh sợ đối với vụ tấn công Trung tâm thương mại thế giới khi thấy sự tàn phá và chết chóc khủng khiếp , kèm theo sự hổ thẹn và giận dữ khi sựtấn công này được ra tay nhân danh họ và nhân danh đức tin của họ . Đây là phản ứng của nhiều người- nhưng không phải là của tất cả. Có đủ những tường thuật và cả hình cảnh cảnh vui mừng trên các đường phố tại các thành phố Ả -rập và các nước Hồi giáo khác khi nghe sự việc xảy ra tại New York . Về một mặt nào đó , phản ứng này có tính ganh ghét - một tình cảm khá phổ biến , dưới một hình thức câm lặng hơn , tại châu Âu . Trong đám kẻ nghèo và khốn khổ ở đây , có người cảm thấy hài lòng - thậm chí có người còn vui sứơng- khi thấy người Mỹ giàu có và tự mãn được cho một bài học.
Còn phản ứng của báo chí Ả -rập đối với vụ tàn sát tại New York và Washington là 1 sự cân bằng khó chịu giữa chấp nhận và từ chối , khá giống với phản ứng của họ đối với nạn diệt chủng Do thái tại châu Âu trong thế chiến thứ 2 ( Holocaust) . Về nạn diệt chủng , có 3 quan điểm không phải là ít gặp trên các phương tiện truyền thông tiếng Ả -rập: sự việc này chưa bao giờ xảy ra ; bị phóng đại quá đáng ; đáng đời bọn Do thái . Về quan điểm thứ 3 , một số nhà báo táo gan còn trách là Hitler đã không làm xong công việc . Không ai công nhận rằng vụ phá họai tòa nhà Trung tâm thương mại thế giới là chưa bao giờ xảy ra , qua thời gian ai cũng công nhận là vụ này vốn do các tay chuyên nghiệp dàn dựng . Ý kiến hiện nay của các nhà bình luận Hồi giáo , dù không phải là tất cả , biện giải rằng không có tìn đồ Hồi giáo hoặc người Ả -rập nào làm việc này . Thay vào đó , họ đưa ra những cách giải thích khác . Trong số đó bao gồm bọn Mỹ theo chủ nghĩa người da trắng là siêu đẳng , ý muốn nói đến vụ Oklahoma do Timothy McVeigh ; những người chống đối tòan cầu hoá ; người châu Âu , người Tàu và những người chống đối kế họach lá chắn phòng thủ tên lửa ; người Nga tìm cách trả thù cho sự sụp đổ của Liên xô ; người Nhật muốn trả thù vụ Hiroshima cố cựu ; và nhiều lý do đại lọai như thế . Một tay bình luận thậm chí còn cho rằng vụ tấn công 11/9 là do Tổng thống Bush dàn dựng , nhằm đánh lạc hướng vụ việc ông ta thắng cử bởi"một thiểu số nhỏ nhoi không đủ để bầu 1 nhân viên hội đồng xã tại miền Thượng Ai cập" Bình luận gia này cũng gán Colin Powell là kẻ đồng phạm của 2 đời Tổng thống Bush .
Cho tới nay , lời giải thích phổ biến nhất , với ít nhiều thay đổi , qui kết tội ác là do kẻ thù ưu ái của họ - đó là Israel , là Mossad ( theo một số người , có sự tiếp tay của CIA) , là hội Trưởng lão Israel , hoặc đơn giản và đầy đủ nhất , là"bọn Do thái". Làm như thế cho phép họ ngay lập tức nâng cao ý nghĩa của vụ tấn công và đồng thời cũng gạt phắt sự liên quan của mình . Động cơ để đổ thừa cho người Do thái là nhằm làm cho người Ả -rập và tín đồ Hồi giáo nói chung vô can và để chia rẽ người Do thái và người Mỹ , Một bình luận viên người Jordan đóng góp 1 chủ đề bổ sung khá thú vị- là "các tổ chức Zion" gây ra vụ tấn công này để Israel lấy cớ phá huỷ đền thờ Aksa Mosque , trong khi cả thế giới đang tập trung chú ý vào nước Mỹ . Cách giải thích này không ngăn được - ngược lại , còn khuyến khích - quan điểm phổ biến về sự việc xảy ra, đó là tuy gây tội ác , nhưng cũng chỉ là ác giả ác báo cho người Mỹ mà thôi . Có lẽ phản ứng mãnh liệt nhất - và công khai nhất - là của tờ tuần báo của nhóm Hamas, Al-Risala , tại Gaza , trong số ngày 13/9/2001” Đấng Allah đã đáp lời cầu nguyện của chóng con”.
Khi toàn bộ sự kinh hoàng của vụ tấn côn được biết rõ hơn , một số cây bút muốn kết tội những kẻ chủ mưu và bày tỏ lòng trắc ẩn đối với nạn nhân . Nhưng ngay cả những người này cũng không chịu bỏ cơ hội để tố cáo rằng chính người Mỹ đã tự gây hoạ cho chính mình . Họ đưa ra 1 bảng liệt kê dài và chi tiết những tội ác mà người Mỹ đã làm , bắt đầu bằng việc chinh phục , chiếm đất làm thuộc địa và đưa dân đến định cư - là những từ gây xúc động lòng người - Tân thế giới cho đến ngàynay , cũng như danh sách những nạn nhân đã chết vì sự tham lam và tàn bạo của người Mỹ tại châu Á, châu Phi , và châu Mỹ La tinh.
Usama bin ladin đã nói rõ cách mà ông ta cảm nhận cuộc chiến đấu khi luôn gọi kẻ thù của mình là"đám thập tự binh". Nên nhắc lại rằng , các Thập tự binh cũng chẳng phải là người Mỹ hoặc người Do thái; mà chính là các tín đồ Cơ đốc tham gia thánh chiến để dành lại những nơi linh thiêng đã bị chiếm mất tại các vùng đất thuộc đạo Cơ đốc . Trong ‘ bức thư gởi cho nước Mỹ" vào tháng 11/2002 được gán cho Usama bin Ladin , có nêu chi tiết nhiều tội ác không những chỉ do chính phủ Mỹ mà còn do nhân dân Mỹ nhúng tay vào , và thư này nêu rõ dưới 7 tiêu đề"Những điều chúng tôi kêu gọi các người và những điều chúng tôi muốn tù các người". Việc đầu tiên là đi theo Hồi giáo ; việc thứ 2"các người ngưng ngay sự áp bức , dối trá , thói vô đạo đức và truỵ lạc "; việc thứ 3" nhìn nhận rằng nước Mỹ là"một quốc gia không có cá tính hoặc nguyên tắc"; việc thứ 4 , chấm dứt ủng hộ Israel tạiPalestine, người Ấn độ tại Kashmir , người Nga chống lại người Chechen , và chính quyền Manila chống lại người Hồi giáo tại miền nam Philippin; điều thứ 5" thu dọn đồ đạc và cuốn xéo khỏi đất nước của chúng ta . Điều này được coi như là lời khuyên có lợi cho người Mỹ" đừng để chúng ta buộc phải gởi các ngươi về nước khi nằm trong quan tài"; điều thứ 6"ngưng ủng hộ các nhà cầm quyền thối nát tại đất nước chúng ta . Đừng xía vào việc chính trị và phương pháp giáo dục của chúng ta . Hãy để bọn ta yên , nếu không sẽ còn gặp chúng ta tại New York và Washington ; thứ 7 , nên giao tiếp với người Hồi giáo trên cơ sở quyền lợi và lợi ích cùng có lợi , thay vì dựa trên các chính sách nô dịch, cướp bóc và chiếm đóng . Lá thư chấm dứt bằng những lời báo cho người Mỹ biết rằng, nếu họ không nghe những lời khuyên trên , họ sẽ bị đánh bại như tất cả các Thập tự binh trước kia , và"số phận của họ cũng sẽ giống như bọn Liên xô sau khi tháo chạy khỏi Afghanistan , lại phải đối đầu với sự thất bại về quân sự , sụp đổ chính trị , tụt nhào về ý thức hệ và phá sản kinh tế”.
Bảng cáo trạng dành cho Mỹ trong lá thư này rất cặn kẻ . Ngoài bảng liệt kê quen thuộc nêu rõ các mối bất bình cụ thể , còn có một loạt những tố cáo chung và riêng . Những mối bất bình này đều có nguồn gốc lắm vẻ và dễ truy tìm , phản ánh các ý thức hệ kế tiếp nhau đã tác động đến các chính trị gia và các chính sách vùng Trung đông qua nhiều thời kỳ khác nhau . Một số ý thức hệ đã có từ thời Quốc xã Nazi , tức là sự suy đồi và sự thống trị cuối cùng của người Do thái ; một số từ thời chịu ảnh hưởng Liên xô , như sự tham lam và bóc lột của chủ nghĩa tư bản . Một số nhiều là ý thức hệ gần đây của châu Âu và thậm chí có nguồn gốc từ Mỹ , và cả phe tả lẫn phe hữu . Trong số đ ócó vấn đề ô nhiễm toàn cầu và việc Mỹ không ký vào thoả ước Kyoto ; sự thối nát về chính trị qua việc tài trợ khi tranh cử ; việc dành đặc quyền đặc lợi cho"giống da trắng" và những ý thức hệ từ cánh hữu , là chủ nghĩa tân Quốc xã , là lời cảnh báo của Benjamin Franklin về nguy cơ Do thái làm giảm ưu thế của giống da trắng . Vai trò mang điềm gỡ của người Do thái được nhấn mạnh trong hầu hết những lời cáo buộc trên .
Ngay cả những giá trị được khoa trương về lối sống Mỹ cũng trở thành tội lỗi và tội ác . Sự giải phóng phụ nữ được coi là hành động suy đồi và đem phụ nữ sử dụng như là "sản phẩm hàng hoá". Bầu cử tự do có nghĩa là người Mỹ tự do chọn người lãnh đạo và vì thế họ phải chịu trách nhiệm và phải chịu tội cho những hành động sai trái của những người lãnh đạo này - tức là không còn có "kẻ đứng ngoài vô tội"nữa . Tệ hại hơn cả là sự tách rời giữa nhà thờ và nhà nước :” Đáng lẽ đất nước của các người phải được cai trị bằng Shariah của đấng Allah được ghi trong hiến pháp và trong luật , thì các người lại soạn ra luật theo ý của mình . các người tách tôn giáo ra khỏi chính trị , đi ngược lại bản chất thanh khiết khẳng định rằng Quyền Tối thượng là của Thượng đế và Đấng tạo hoá". Nói tóm lại ," các người đang sống trong 1 nền văn minh tệ hại nhất trong lịch sử nhân loại" Lời phán xét này còn đáng chú ý hơn nữa khi nó xuất hiện vào lúc các chế độ độc tài Quốc xã và Liên xô vẫn còn hiễn hiện trong ký ức – đó là chưa nói tới các chế độ chuyên chế xa xưa được ghi trong sử mà bin Ladin và đồng bọn thường viện dẫn.
Lý do cơ bản là hiện nay nước Mỹ được coi như là nước cầm đầu phương Tây , của thế giới Cơ đốc , hoặc nói chung là” thế giới của những kẻ không có đạo". Theo nghĩa này , Tổng thống Mỹ được coi như là người nối nghiệp của một chuỗi dài các nhà cầm quyền – tính từ các hoàng đế Byzantine tại Constantinople , các hoàng đế LaMã Thần thánh tại Vienna, Nữ hoàng Victoria và các đấng quân vương tại Châu Âu . Ngày nay cũng như trong quá khứ , thế giới của những kẻ Cơ đốc không có đạo được coi như là lực lượng duy nhất đáng gờm đã cạnh tranh và ngăn cản sự bành trướng được thần thánh cho phép của người Hồi giáo , lực lượng này chỉ kháng cự và làm chậm nhưng không ngăn cản được sự chiến thắng cuối cùng , không thể khác được , và toàn diện của đạo Hồi .
Không có gì để nghi ngờ là sự hình thành tổ chức Al- Qa’ida và những lời tuyên chiến liên tục của Usama bin Ladin đã đánh dấu khởi điểm của 1 giai đoạn mới đầy tai hoạ trong lịch sử đạo Hồi và chủ nghĩa khủng bố . Lý do cho các hành động của bin Ladin , do chính ông ta giải thích rất rõ , là sự hiện diện của Mỹ tại Arabia trong cuộc chiến vùng Vịnh - là 1 sự xúc phạm đến Thánh địa Hồi giáo- và việc nước Mỹ sử dụng Saudi Arabia làm căn cứ để tấn công Iraq. Nếu Arabia là địa điểm có tính tượng trưng nhất trong thế giới Hồi giáo , thì Baghdad chiếm vị trí thứ 2 , vì là kinh đô của Caliph trong vòng nửa thiên niên kỷ và là bối cảnh của những trang hào hùng nhất trong lịch sử Hồi giáo .
Có 1 yếu tố khác có lẽ còn quan trọng hơn đã thúc đẩy bin ladin hành động . Trong quá khứ , người đạo Hồi chiến đấu chống lại phương Tây bao giờ cũng nhờ những kẻ thù của phương Tây sự uỷ lạo , sự khuyến khích và những giúp đỡ về quân sự và vật chất. Giờ đây , lần đầu tiên trong nhiều thế kỷ , không còn có loại kẻ thù hữu dụng như thế nữa . Bin Ladin và đồng bọn nhận ra ngay rằng , trong khung cảnh dàn xếp quyền lực thế giới mới , nếu họ muốn đánh nhau với Mỹ , họ phải làm việc này một mình . Vào năm 1991, cùng năm này đế quốc Liên xô không còn tồn tại , bin Ladin và đồng bọn khai sinh Al – Qa’ida , thu nạp nhiều cựu binh tham chiến tại Afghanistan . Nhiệm vụ của họ dường như có thể làm cho người khác sợ hãi , nhưng với họ thì không hề như thế. Theo cách nhìn của họ , họ đã đuổi được người Nga ra khỏi Afghanistan , từ sự thất bại to lớn này đã dẫn tới sự sụp đổ của Liên bang Xô viết . Sau khi đã đánh bại được 1 siêu cường mà họ luôn coi là đáng sợ , họ cảm thấy sẳn sàng để chọi với 1 siêu cường khác ; siêu cường này là nước Mỹ , theo bin Ladin nhiều lần phát biểu , chỉ là con hổ giấy .
Các tay khủng bố Hồi giáo cũng đã từng bị thúc đẩy bởi những niềm tin như thế trước đây . Một trong những phát hiện gây ngạc nhiên nhiều nhất trong hồi ký của những kẻ chiếm giữ sứ quán Mỹ tại Tehran từ 1979 đến 1981 là lúc đầu họ chỉ có ý định muốn chiếm toà nhà và giữ các con tin chừng vài ngày . Sau đó họ thay đổi ý định khi thấy rõ khi những phát biểu của Washington cho biết sẽ không có hành động đáng gờm nào chống lại họ .Cuối cùng họ thả con tin , họ giải thích chỉ vì sợ rằng Ronald Reagan, tổng thống đắc cử sẽ tiếp cận vấn đề"giống như chàng cao-bồi". Còn bin Ladin và đồng bọn rõ ràng là không hề có sự quan tâm như thế , và sự thù ghét của họ cũng không bớt đi vì sợ hãi hoặc giảm đi vì kính nễ. Theo cách cũ , họ cứ liên tục nhắc là người Mỹ đã từng cuốn vó ra khỏi Việt nam , Liban và- điều quan trọng nhất dưới mắt họ - là rút lui ra khỏi Somalia . Người ta phát hiện nhiều điều qua những nhận xét của bin Ladin trong 1 cuộc phỏng vấu do John Miller , đài ABC News , vào ngày 28 /5/1998 :
Chúng ta đã từng thấy trong thập niên vừa qua sự suy yếu của chính quyền mỹ và sự yếu đuối của lính Mỹ , kẻ sẳn sàng gây chiến tranh lạnh nhưng không hề chuẩn bị cho những chiến tranh lâu dài . Điều này được chứng minh tại Beirut , chỉ với 2 vụ nổ lính thuỷ đánh bộ Mỹ đã tháo chạy , cho thấy rằng họ có thể cuốn xéo trong vòng 24 giờ , và điều này cũng đã lập lại tại Somalia … Thanh niên chúng tôi ngạc nhiên khi thấy tinh thần của lính Mỹ thấp đến thế … Chỉ sau vài cú đánh đấm , là họ bỏ chạy vì thua ….Họ quên mất mình là người lãnh đạo thế giới và lãnh đạo trật tự thế giới mới . Họ rút lui , kéo theo các xác chết binh sĩ và sự thất bại đầy nhục nhã .
Đối với Usama bin Ladin , lời tuyên chiến chống lại nước Mỹ đánh dấu sự phục hồi cuộc tranh đấu để giành sự thống trị tôn giáo trên thế giới mở màn thế kỷ thứ 7 . Đối với ông này và đồng bọn , đây là thời điểm thuận lợi . Ngày nay , nước Mỹ là đại diện cho 1 nền văn minh và thể hiện vai trò lãnh đạo của Nhà của Chiến tranh , và giống như Rome và Byzantine , nước Mỹ đã thoái hoá , suy đồi đạo đức , sẵn sàng bị lật đổ. Tuy nước Mỹ yếu , nhưng vẫn còn nguy hiểm . Khomeini đã nói rõ như thế khi gọi nước Mỹ là tên "Satan đầu sỏ" , còn đối với các phần tử nhóm Al –Qa’ida , sự lôi cuốn của nước Mỹ với lối sống phóng đãng , đồi bại sẽ là mối đe dọa lớn nhất đối với lối sống Hồi giáo mà họ muốn áp đặt cho các giáo hữu đạo Hồi .
Nhưng với nhiều người khác nước Mỹ lại cống hiến một kiểu quyến rũ khác – đó là sự hứa hẹn về nhân quyền , về các định chế tự do và 1 chính phủ có trách nhiệm , đại diện cho dân . Càng ngày càng có nhiều cá nhân , thậm chí một số phong trào , đứng ra cố du nhập những định chế như thế vô nước mình . Điều này không hề dễ dàng. Như đã thấy , nhiều thử nghiệm tương tự đã trở thành các chế độ thối nát hiện nay . Trong số 57 thành viên của Tổ chức Hội nghị Hồi giáo , chỉ có 1 nước duy nhất , là Cọng hòa Thổ nhĩ kỳ , xây dựng được các định chế dân chủ trong một thời gian dài , mặc dù gặp phải nhiều vấn đề khó khăn , nhưng cũng đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc xây dựng 1 nền kinh tế tự do và 1 xã hội và 1 trật tự chính trị tự do .
Tại 2 nước Iran và Iraq , chính phủ hiện nay chống Mỹ rất mạnh , hiện đang có những lực lượng dân chủ đối lập có khả năng lập được chính phủ .Còn chúng ta , đại diện cho thế giới tự do , đáng lẽ có thể làm nhiều việc để giúp họ , nhưng lại làm qúa ít. Tại nhiều nước trong khu vực , có nhiều người chia sẻ các giá trị của chúng ta , có cảm tình với chúng ta , và cũng muốn có cùng lối sống như chúng ta . Họ hiểu rõ tự do và muốn xứ sở của họ được tư do . Quả là khó khăn nhiều cho chúng ta khi muốn giúp đỡ họ , nhưng ít nhất chúng ta không nên cản trở họ . Nếu họ thành công , chúng ta sẽ có thêm bạn và đồng minh theo đúng nghĩa của từ này , không phải chỉ về mặt ngọai giao .
Trong khi đó , còn có 1 vấn đề cấp bách hơn . Nếu những người cầm đầu Al-Qa’ida có thể thuyết phục thế giới Hồi giáo chấp nhận quan điểm và sự lãnh đạo của họ, thế thì trước mắt là 1 cuộc chiến đấu lâu dài và đầy gian khổ , không những chỉ dành cho nước Mỹ. Châu Âu , nhất là Tây Âu hiện nay, là nơi cư trú của 1 cọng đồng Hồi giáo đông đúc và ngày càng lớn mạnh , và nhiều người châu Âu bắt đầu xem sự có mặt của cọng đồng này là 1 vấn đề , thậm chí là sự đe dọa. Chẳng chóng thì chầy , Al- Qa’ida và đồng bọn sẽ đụng độ với các nước láng giềng của thế giới Hồi giáo- đó là nước Nga, Trung quốc, Ấn độ - là những nước có thể sẽ chẳng nhẹ tay như nước Mỹ khi sử dụng vũ lực để chống lại tín đồ Hồi giáo và những điều ràng buộc thiêng liêng của họ . Nếu nhóm chủ trương chính thống tính tóan đúng và thành công trong cuộc chiến , thì quả là 1 tương lai đen tối sẽ dành cho thế giới , nhất là phần thế giới đang theo Hồi giáo.
Lời bạt
Sự can thiệp quân sự của Mỹ tại Afganistan và sau đó tại Iraq nhằm 2 mục tiêu công khai : mục tiêu thứ nhất và sát trước mắt hơn , là nhằm ngăn chận và đánh bại khủng bố ; mục tiêu thứ 2 là mang lại tự do , đôi khi được gọi là nền dân chủ , cho nhân dân các nước này và một số nước trong vùng .
Những kẻ bảo trợ và tổ chức chính sách khủng bố gồm có 2 nhóm nhằm vào các mục đích rất khác nhau , mặc dù họ có khả năng cọng tác và đã từng làm như vậy tường xuyên . Một nhóm có tính địa phương gồm những tàn dư của chế độ Iraq trước kia , nhóm này được chính quyền của một số nước trong vùng khuyến khích và đỡ đầu vì họ cảm thấy nguy hiểm bởi những gì đang xảy ra tại Iraq. Mục đích của những nhóm này là bảo vệ - hoặc trong trường hợp Iraq , là phục hồi – các chế độ chuyên chế thâm căn cố đế tại các nước này . Nếu người Mỹ quyết định từ bỏ chiến dịch quá tốn kém và nhiều phiền phức này rồi rút về nước , như nhiều người cố xui , thì điều này cũng đủ làm hài lòng các nước trong vùng bảo trợ cho khủng bố . Một số nước còn đề xuất là sẽ khôi phục những mối quan hệ hữu nghị .
Còn nhóm khủng bố kia coi việc hất cẳng Mỹ ra khỏi Afghanistan và Iraq chỉ là 1 bứơc khởi đầu - tức là chỉ mới thắng có 1 trận đánh chứ chưa thắng 1 cuộc chiến , chỉ là 1 bứơc trong 1 cuộc chiến tranh dài và lớn hơn cho đến khi nào dành được thắng lời hòan tòan trên phạm vi tòan cầu .
Người Mỹ cũng vậy , tuyên bố sự can thiệp của họ là nhằm 1 mục đích dài và rộng lớn hơn; không những chỉ đánh bại và chấm dứt được chính sách khủng bố , mà còn để giúp cho nhân dân các nước Afghanistan và Iraq vốn bị áp bức từ lâu , và cuối cùng là nhân dân các nước khác, cơ hội đọan tuyệt với các chế độ thối nát và áp chế đã đè nén họ hàng chục năm dài và để phục hồi hoặc hình thành 1 trật tự chính trị vì dân và được nhân dân kính trọng . Điều này được nhiều người trong vùng ủng hộ mạnh mẻ . Nhưng , do những gì đã xảy ra trong qúa khứ và thực trạng hiện tại , sự ủng hộ này còn khá dè dặt .
Điều chắc chắn là , việc hình thành 1 nền dân chủ tại Trung đông sẽ không dễ dàng hoặc nhanh được, như đã từng xảy ra tại châu Âu hoặc tại châu Mỹ . Tại Trung đông , sự hình thành này phải trải qua nhiều giai đọan . Quá nhanh hoặc quá xa chỉ tạo nên những lợi thế trước mắt cho những kẻ có lắm thủ đọan và dọa nạt . Algeria là 1 ví dụ cho thấy có khi lại dẫn đến sự xung đột dữ dội giữa 2 nhóm .
Hình thái độc tài tồn tại hiện nay tại Trung đông trên nhiều mặt đó là kết qủa của sự cải cách , rập khuôn và chịu ảnh hưởng của châu Âu . Hình thái này chỉ dẫn tới một mô hình chính trị châu Âu duy nhất có tác dụng tại Trung đông - đó là nhà nước chỉ có 1 đảng chính trị , hoặc theo kiểu quốc xã hoặc kiểu Cọng sản , nhưng thực ra chẳng khác nhau mấy . Trong các hệ thống này , đảng chính trị không hề giống như tại châu Âu , là tổ chức để thu hút phiếu bầu và thắng cử , mà là 1 phần của bộ máy nhà nước chuyên lo việc nhồi sọ và cưởng chế . Đảng Ba’th có 2 nguồn gốc , vừa phát-xit vừa Cọng sản , và hiện nay vẫn còn đại diện đắc lực cho cả 2 xu hướng này .
Nhưng ngoài những khuynh hứơng này ra , còn có các truyền thống xưa hơn , được thể hiện khá rõ trong ngôn ngữ chínhtrị và kinh nghiệm chính trị tại Trung đông : đó là truyền thống chính phủ cai trị bằng luật pháp , bằng sự đồng thuận , kể cả bằng giao ứơc .
Những thay đổi về mặt tinh thần của những truyền thống này sẽ tạo cơ hội cho các hình thái Hồi giáo khác ngoài sự cuồng tín điên rồ và bất dung của đám khủng bố. Dù rằng hiện nay nhóm khủng bố được nhiều người đồng tình và cung cấp tiền bạc dồi dào , nhưng hình thái này không hề đại diện cho dòng Hồi giáo chính thống từ nhiều thế kỷ . Các truyền thống ra lệnh và tuân thủ qủa thực đã bám rễ lâu đời , nhưng cũng có những yếu tố khác trong truyền thống Hồi giáo góp phần xây dựng 1 hình thức cai trị cởi mở và tự do hơn : đó là việc các nhà luật học truyền thống từ bỏ nguyên tắc chuyên chế và độc đóan và thay vào đó bằng các giao ứơc khi xây dựng và lấy ý kiến đồng thuận về đạo đức cầm quyền , tính bó buộc tuân thủ luật pháp của tất cả mọi người , từ bậc vua chúa lắm quyền đến những kẻ hèn mọn nhất . Một yếu tố nữa đó là sự chấp nhận , đúng ra là cần có sự khoan dung , được thể hiện qua những lời dạy trong kinh Qur’an :” trong tôn giáo không được ép buộc" và truyền thống xa xưa"sống hòa hợp trong cọng đồng là nhờ ơn Chúa ". Điều này còn được phái Sufi đưa đi xa hơn nữa chủ trươgn cần có đối thọai giữa các tín niệm để cùng tìm ra phương cách thỏa mãn được các khát vọng chung .
Cố gắng mang lại tự do cho vùng Trung đông khơi lên 2 nỗi lo sợ : một tại nước Mỹ , và nhiều hơn nữa tại châu Âu, đó là cố gắng này sẽ thất bại ; nỗi sợ kia , từ các nhà lãnh đạo hiện nay trong vùng , là cố gắng này sẽ thành công . Điều chắc chắn là , các chính sách về tự do hóa chính trị tại Afghanistan và Iraq tạo nên mối đe dọa chí tử cho các chế độ chỉ có thể tồn tại bằng cách duy trì bộ máy chuyên chế trong nước và sự khủng bố ở nước ngoài . Kẻ thù của tự do rất nguy hiểm , không chút nương tay , không hề có chút trắc ẩn hoặc hối hận , ngay cả đối với người dân trong nước . Chúng sẳn sàng đem không những chỉ bản thân và gia đình , mà cả quốc gia để hy sinh đánh bom liều chết nhằm với mục đích là làm thất bại và đuổi cổ kẻ thù vô đạo và xây dựng uy quyền của mình .
Việc hình thành 1 xã hội tự do , không phải là việc dễ dàng như lịch sử của các nền dân chủ hiện có trên thế giới đã minh chứng . Kinh nghiệm của cọng hòa Thổ nhĩ kỳ trong nửa thế kỷ vừa qua và của một số quốc gia Hồi giáo khác gần đây hơn đã cho thấy 2 điều : một là , qủa là rất khó mà hình thành 1 nền dân chủ trong 1 xã hội như thế và hai là , mặc dù khó nhưng không phải là không thể được . Qua nghiên cứu lịch sử Hồi giáo cùng các truyền thống chính trị Hồi giáo to lớn và phong phú , người ta tin rằng có thể xây dựng được các định chế dân chủ - không nhất thiết phải theo cách định nghĩa của phương Tây về thuật ngữ đã sử dụng sai quá nhiều này , mà căn cứ vào lịch sử và văn hóa của chính họ , để họ tự xây dựng 1 nền cai trị theo luật , có thảo luận và cởi mở , trong 1 xã hội văn minh và nhân văn . Điều này một mặtphù hợp với văn hóa Hồi giáo truyền thống và mặt khác cũng hợp với kinh nghiệm hiện đại của nhân dân Hồi giáo nhằm tạo ra 1 cơ sở để thẳng tiến trên con đường đi tới tự do theo đúng nghĩa của từ này.
Các lực lượng chuyên chế và khủng bố vẫn còn rất mạnh và ta cũng chưa biết sẽ dẫn đến hậu qủa như thế nào . Nhưng do cuộc đấu tranh vẫn còn hòanh hành ngày càng mạnh , một số sự việc trước đây còn mù mờ nay đã rõ dần . Cuộc chiến chống lại khủng bố không thể tách rời đòi hỏi phải có tự do , và không thể thành công nếu thiếu 1 trong 2 điều kiện . Cuộc chiến đấu này không chỉ còn khu trú tại 1 hoặc 2 quốc gia , như một số người châu Âu vẫn nghĩ , nhưng đã mở rộng sang tòan cả vùng trung đông và sau đó tòan thế giới , mà tất cả chúng ta đều phải gánh chịu nhiều hậu qủa sâu sắc .
Nếu tự do thất bại , khủng bố chiến thắng , các dân tộc Hồi giáo sẽ là những người gánh chịu hậu qủa trước tiên và nặng nề nhất . Không phải chỉ có mình họ, mà nhiều người khác cũng phải lãnh đủ như họ .
01/Tháng 12/ 2003 Princeton N.J. Bernard Lewis
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét