ISLAM Ở
VIỆT NAM
}الإسلام
في فيتنام{
[Tiếng Việt – Vietnamese – فيتنامي]
Fatiha biên soạn, Mohamed
Djandal và Ibn Ysa chỉnh lý, hiệu đính, 2009 (Hồi lịch năm 1430)
Nước Việt Nam có
truyền thống văn hoá lâu đời và là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Cũng
như ở nhiều nước trên thế giới, mỗi dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam
có những tín ngưỡng, tôn giáo gắn liền với đời sống kinh tế, văn hoá và xã hội.
Khái
lược về lịch sử Islam ở Đông Nam
Á và Việt Nam .
Đông
Nam Á được biết đến như một vùng đất chính của Islam. Số người muslim chiếm tới
60% tổng dân số của vùng. Trong đó, ở Inđonesia, người muslim chiếm 85%; ở
Brunei 65%, Malaysia 55%, Singapore 17%, Philippines 8%, Campuchia 7%, Myanmar
5%, Thái Lan 4% tổng dân số. Nhưng ở Việt Nam , người muslim chỉ chiếm một tỷ
lệ nhỏ, chưa tới 1 phần nghìn dân số.
Chưa
có tài liệu nào khẳng định chính xác thời gian Islam lan tới Đông Dương. Nhưng
nói chung, Islam đã tới Đông Dương trước khi nó tới Trung Quốc trong triều đại
nhà Tống (618 - 907). Islam đến Đông Nam Á không phải bằng con đường gươm giáo,
bằng những cuộc chiến tranh “thần thánh” như đã từng diễn ra ở Trung Cận Đông
và Ấn Độ mà bằng con đường hoà bình thông qua các thương nhân và các nhà truyền
giáo Arập, Ấn Độ, Ba Tư khi họ đi thuyền qua các thành phố ven biển. Sau khi đi
qua eo biển Malacca, mà người Ả Rập biết đến nó qua cái tên Malay là Salaht
("eo biển"), họ ghé lại đảo Tiuman. Sau đó họ dừng chân ở các cảng
biển tại Sanf, vương quốc Chăm pa ở bờ biển phía Đông, tiếp theo là ở một hòn
đảo cách xa đất liền, được biết đến với tên Sanf Fulaw. Từ đó những con thuyền
lớn có lẽ đã đi men bờ biển quanh vịnh Bắc Bộ tới Hà Nội, trước khi họ dừng
chân ở điểm cuối cùng là Canton
(trước kia là Khanfu). Ngay từ đầu Islam đã được cư dân địa phương dễ dàng tiếp
nhận và không gặp trở ngại gì đáng kể. Sau đó tôn giáo mới này được pha trộn
với các tôn giáo địa phương. Trên thực tế, Islam càng ngày càng gây nhiều ảnh
hưởng đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội của các quốc gia Đông
Nam Á, đặc biệt là các quốc gia Đông Nam Á hải đảo.
Còn
Islam thâm nhập vào Việt Nam
vào nửa cuối thế kỷ thứ 10. Các nhà sử học Trung Quốc thuộc đời nhà Tống viết
trong Tống sử (năm 984), khi kể về xứ sở Chăm pa, có ghi: “Cũng có giống
trâu núi không dùng để cày bừa mà dùng để cúng tế. Trước khi giết, thầy cúng đọc
câu kinh Allahu Akbar.” Nhưng đặc biệt, có một phát hiện khảo cổ học
gồm hai bia mộ thuộc về người muslim Champa, một tấm có niên đại 1025 - 1035 và
một tấm có niên đại 1039, minh chứng rõ nét hơn về thời điểm Islam du nhập vào
Việt Nam
(Bá Trung Phụ, 2005).
Khi
Islam xuất hiện, một số ít người Chăm-pa chấp nhận theo Islam. Nhà khảo cổ
Pháp, H. Huber, đã tìm được trong sử nhà Tống, Trung Quốc, bản tường thuật về
sinh hoạt của dân tộc Chăm có ghi câu kinh A-la hòa cập bạt mà người ta
suy ra là câu kinh nhật tụng Allahu Akbar (Allha vĩ đại) của người
Muslim. Ngoài ra, trong câu chuyện lịch sử dân gian của người Chăm, đăng trong Excursions
et Reconnaissances, XIV, trang 153, có ghi vị vua Champa trị vì vào thế kỷ
thứ 10 T.L. đã nhập đạo Islam và đã có đi hành hương Thánh địa Makkah, chứng tỏ
đạo Islam đã có một thời cực thịnh tại đất Champa.
Lịch
sử vương quốc Chăm-pa.
Vương
quốc Chăm pa hay Chiêm Thành được xây dựng lên từ thế kỷ thứ 2 và tồn tại đến
thế kỷ thứ 19. Theo các sử liệu Trung Quốc, sau cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn
nhưng bị đàn áp đẫm máu của Hai Bà Trưng, vào năm 192, lợi dụng lúc nhà Hậu Hán
suy yếu, một viên chức quận Tượng Lâm (phía nam Thừa Thiên ngày nay) là Khu
Liên đã lãnh đạo người Chăm nổi lên khởi nghĩa thắng lợi lập nên vương quốc Lâm
ấp (xứ Rừng). Quốc hiệu Chăm pa xuất hiện vào lúc nào không rõ, chỉ biết rằng
bia kí sớm nhất có nhắc đến tên này được khắc vào cuối thế kỷ thứ 6. Sau khi
lập quốc, người Chăm thoát khỏi ách đô hộ của Trung Hoa, liên hệ với Trung Hoa
cũng hầu như không còn. Thay vào đó, người Ấn Độ đến ngày một nhiều hơn và khác
với Trung Hoa, họ không mang theo chiến tranh, vì vậy, nền văn hóa Ấn Độ được
người Chăm vui vẻ tiếp nhận. Đây là một vương quốc đã một thời hưng thịnh tại
vùng đất Trung Việt Nam
ngày nay, mà kinh đô Vijaya (Thành Đồ Bàn) qua một số đền tháp, di chỉ, còn lưu
lại, được đặt tại Trà Kiệu, vùng Bình Định ngày nay. Lãnh thổ của Chiêm Thành
trải dài từ vùng duyên hải miền Trung, cụ thể là dãy núi Hoành Sơn phía Bắc
Phan Thiết đến phía Nam .
Sắc dân có nguồn gốc Malay-Polinesian với nền văn hoá Ấn Độ và tôn giáo truyền
thống là Bà la môn. Người Chăm giỏi về nghề đi biển, có truyền thống thương mại
lâu đời. Họ đã thiết lập mối quan hệ giao lưu, buôn bán với các nước Đông Nam
Á, nhất là vào thời kì Pôpin-Tarthuôn (Chế Mân) và Pôpin Thuôn (Chế Bồng Nga)
thế kỷ 12 - 15, có mối giao hảo giữa Indonesia và Malaysia rất chặt chẽ, đồng
thời, gắn bó với nhau qua sự thông thương trao đổi và sinh hoạt tôn giáo
(Islam). Maspéro (1909) viết: "Thương cảng nổi tiếng nhất lúc bấy giờ
là Shinhapura thuộc vùng đất Quảng Nam - Đà Nẵng, nằm trên dòng sông Thu Bồn,
với diện tích 60 km2 hay còn gọi là Hội An".
Trong
suốt thế kỷ 17, các tỉnh của Chăm pa lần lượt bị nước Đại Việt thôn tính và đến
cuối thế kỷ 17 thì vương quốc Chăm pa hoàn toàn thuộc về Đại Việt. Dưới thời
vua Minh Mạng (1836), người Chăm pa bị ngược đãi nặng nề.
Một
số khác đến Thái Lan, đảo Hải Nam
(Trung Quốc) và Malaysia .
Do quá trình cộng cư, tiếp xúc với người Malaysia ,
Indonesia
theo đạo Islam, nên cộng đồng người Chăm đã chịu ảnh hưởng về tôn giáo của các
nước này. Họ chuyển từ sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống sang sinh hoạt tôn
giáo theo đạo Islam và từ đó cho đến nay, đạo Islam trở thành một trong những
tôn giáo chính của họ.
Mãi
đến năm 1858, do sự ngược đãi của vua Chân Lạp, một bộ phận người Chăm di cư
đến vùng đất An Giang (Việt Nam), được nhà Nguyễn chấp thuận và cho phép mở
mang khai khẩn, ngoài ra còn một bộ phận nhỏ theo ông Hoàng Pôchecoc về định cư
ở Tây Ninh. Đại bộ phận người Chăm Islam ở Nam Bộ có nguồn gốc từ người Chăm
vùng Pantu Rangar ở Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay.
Những
người Muslim Chăm pa khác không đi theo vua Pôchơn thì ở lại Nha Trang, Phan
Rang, Phan Rí , và Phan Thiết. Sự cô lập giữa họ
với những người Muslim khác ngày càng tăng, họ bắt đầu pha trộn Islam với Phật
giáo và Bà la môn. Do vậy mà con cháu họ sau này dần đánh mất đi những lời giáo
huấn chính thống của Islam. Vào năm 1959, con cháu của họ đã liên lạc được với
người Chăm Islam ở Châu Ðốc (một trong 13 làng ở miền Nam) và cộng đồng Muslim
ở Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh). Kết quả của sự giao lưu này là con cháu Chăm
pa ở miền Trung trước kia đã đánh mất Islam thì nay đã trở lại với Islam chính
thống. Hơn nữa, với sự giúp đỡ của cộng đồng Muslim ở Sài Gòn, những thánh
đường Islam đã được xây dựng ở Văn Lâm, Nho Lâm, An Nhơn và Phước Nhơn thuộc
tỉnh Ninh Thuận.
Trải
qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, người Chăm đã định cư ở nhiều nơi,
nhiều nhất là ở Campuchia. Quá trình cộng cư với các cộng đồng dân tộc, dưới sự
tác động của những yếu tố như: địa lí, môi trường và kinh tế đã ảnh hưởng sâu
sắc đến đời sống xã hội của người Chăm. Họ đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hoá
mới, trong đó có tôn giáo. Hiện nay, người Chăm có hai tôn giáo chính là
Bàlamôn và Islam, trong Islam có 2 nhánh là đạo Bàni và Islam chính thống.
Ngoài ra, trong cộng đồng của người Chăm ở Nam Bộ còn có nhóm
"Javakur", là con cháu của cư dân nói tiếng Mã Lai đa đảo, gốc từ
Malaysia và Indonesia tới Campuchia lập nghiệp vào cuối thế kỉ 19, đến đầu thế
kỉ 20, định cư dọc theo sông Hậu - Châu Đốc, tỉnh An Giang. Nhóm
"Javakur" do sinh sống với người Chăm Islam Nam Bộ nên họ đã hoà nhập
vào cộng đồng này và tự nhận mình là người Chăm.
Người
Chăm Islam luôn luôn gắn kết thế tục với tôn giáo. Đặc điểm nổi bật nhất chính
là lối sống hình thành từ việc thực hiện đức tin và sự thực hành đầy đủ các bổn
phận của tín đồ được quy định trong giáo luật Islam. Mỗi tín đồ luôn phải tâm
niệm trong lòng sáu đức tin căn bản:
1.
Tin Thượng Đế Allah chỉ có một và duy nhất.
2.
Tin có các vị Thiên thần.
3.
Tin có các Thiên Sứ. Họ
cũng là người nhưng có nhiệm vụ dẫn dắt con người đi theo con đường của Thượng
Đế (vị đầu tiên là Adam và vị cuối cùng là Muhammad (Saw)).
4.
Tin vào các Kinh sách của Thượng Đế, trong đó người muslim tuân theo Kinh Qur'an
vì đây là Kinh sách cuối cùng được mặc khải qua Thiên sứ Muhammad (Saw).
5.
Tin có ngày tận thế, tin có cuộc phán xét của Thượng Đế.
6.
Tin vào việc mọi số mệnh của con người đều được Thượng Đế an bài.
Tuy
nhiên, công việc của họ không phải vì thế mà phó thác tất cả cho số mệnh, cần
có nỗ lực của bản thân trong xã hội.
Từ
những đức tin ẩn chứa bên trong, được họ cụ thể hoá bằng thực hành bên ngoài,
đó chính là việc thực hiện 5 trụ cột của Islam. Năm trụ cột này là:
(1) Tuyên thệ “Không có Thượng Đế nào xứng đáng
được thờ phụng mà chỉ có Allah duy nhất không có cộng tác với Ngài và chứng nhận rằng Muhammad là bề tôi và cũng là vị
Thiên Sứ của Ngài.”.
(2) Dâng lễ Solah 5 lần một ngày.
(3) Nhịn chay vào tháng Ramadan.
(4) Đóng tiền Zakat (thuế an sinh xã hội để bố thí người
nghèo).
(5) Hành hương đến thánh địa Makka (nước Ả Rập Xê-út) nếu
có đủ điều kiện về tài chính và sức khoẻ.
Năm
điều trụ cột có thể được xem là những quy định về nghĩa vụ tôn giáo mà mỗi tín
đồ phải thực hành để thể hiện đức tin của mình vào Allah.
Nghiên
cứu xã hội Chăm Islam Nam Bộ cho thấy, phụ nữ có một vai trò rất quan trọng
trong gia đình và trong sinh hoạt tôn giáo. Ở thánh đường luôn có một nơi riêng
để cho tín đồ nữ dâng lễ. Nhìn chung, hoàn cảnh gia đình và xã hội Chăm Islam
vẫn chưa phát triển, có lối sinh hoạt mang đậm màu sắc tôn giáo, nhưng có sự cố
kết tộc người. Điều này giúp cho cộng đồng Chăm Islam có một sức mạnh liên kết
chặt chẽ. Chính những yếu tố này đã góp phần kéo mọi người đoàn kết, gần gũi
với nhau hơn.
Cộng
đồng Muslim ở Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 60.000 tín đồ muslim người
Chăm, tập trung ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang, thành phố Hồ Chí
Minh, Tây Ninh và Đồng Nai. Riêng ở Châu Đốc (An Giang) có khoảng hơn 10.000
người Chăm Islam. Ngoài ra, còn có hai nhóm người Việt muslim, đó là người Việt
cải đạo sang Islam và người Việt lai với người Ả Rập, Ấn Độ, Pakistan,
Malaysia, Indonesia.
Cộng
đồng muslim ở Sài Gòn xuất hiện trong thời kỳ Pháp thuộc, bao gồm chủ yếu là
người Chăm Islam di cư lên thành phố, người Việt cải đạo, người Ấn Độ,
Pakistan, Malaysia, Indonesia và Ả Rập. Ngày nay cộng đồng này có khoảng 6000
tín đồ. Họ dùng tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày. Ngoài ra, trong cuộc sống
đô thị không còn điều kiện tự cô lập như tại các thôn ấp nữa, đạo Islam phải
không bị khép trong một không gian hạn hẹp, một dân tộc, một nước nào, thì mới
triển khai được tác dụng nhân ái, mang ánh sáng Thông Điệp Chân Lý của Allah
đến với mọi người.
Nhóm
ở Đồng Nai có từ thời chế độ ngụy theo đuổi chính sách “phân tán” dân
tới miền nông thôn để ngăn chặn sự xâm nhập sâu của lực lượng Bắc Việt.
Sau
năm 1975, một số người Chăm Islam đã rời Việt Nam để sinh sống ở một số nước
như Mỹ, Pháp, Malaysia, Ấn Độ, Canada và Australia. Họ có nhiều cơ hội để học
hỏi về Islam tại các trung tâm đào tạo về Islam lớn trên thế giới và từ đó có
dịp giúp đỡ những người Muslim tại quê nhà qua viết sách, báo Islam và giúp đỡ
những người khó khăn, “lá lành đùm lá rách”.
Nhóm
muslim ở Hà Nội chủ yếu là người nước ngoài đang làm việc tại các đại sứ quán
và một số công ty, tổ chức phi chính phủ. Hàng năm có vài người Việt cải đạo
sang Islam để kết hôn với người Muslim nước ngoài hoặc số ít trí thức, sinh
viên đã thấy được chân lý Islam và đi theo tiếng gọi của đức tin. Tuy ít ỏi
nhưng những người Việt Muslim ở đây là một bộ phận quan trọng của cộng đồng Muslim
Hà Nội.
Ngày
nay, người Chăm Islam đã chú trọng hơn về giao lưu, học hỏi thêm từ cộng đồng Muslim
quốc tế. Qua nhiều năm, thanh niên từ các làng Chăm Nam Bộ và Ninh Thuận được
gửi đi du học tại Malaysia, Ả Rập Xê-út, Ai Cập, Libi để học Qur'an và giáo lý
Islam. Sau khi học xong, các thanh niên này trở về làng dạy lại Islam cho người
khác. Một yếu tố khác giúp họ vẫn giữ được những giáo huấn gốc của Islam là sự
ảnh hưởng lẫn nhau giữa họ và những thương gia Malaysia lái thuyền dọc theo sông
Mêkong.
Năm
1991, những người muslim ở Thành phố Hồ Chí Minh lập ra Ban Đại diện Cộng đồng
Islam gồm 7 thành viên với nhiệm kỳ là 4 năm. Đầu năm 2004, người Chăm Islam ở
An Giang cũng lập Ban Vận động và đã tổ chức Đại hội Đại biểu vào cuối năm
2004, thành lập Ban Đại diện Cộng đồng Islam tỉnh An Giang.
Số
lượng tín đồ muslim ở Việt Nam
không nhiều nhưng Islam lại gắn chặt với dân tộc Chăm, một dân tộc có những đặc
điểm riêng về lịch sử và văn hoá. Mặc dù đạo Islam trong người Chăm có sự khác
biệt nhưng nó đã góp phần tạo thêm nét đặc sắc về văn hoá và phong tục tập quán
của dân tộc Chăm, cũng như góp phần vào sự đa dạng của nền văn hóa đa dân tộc
Việt Nam
(Ban Tôn giáo Chính Phủ, 2007.)
Hiện
nay ở Việt Nam có 40 Thánh đường Islam và 21 surao (nơi cầu nguyện nhỏ hơn
thánh đường) tập trung ở các tỉnh An Giang, thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang,
Trà Vinh, Long An, Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai ở miền Nam, tỉnh
Ninh Thuận ở miền Trung. Thủ đô Hà Nội có thánh đường duy nhất ở miền Bắc ngụ
tại số 12 Hàng Lược gọi là Masjid Al-Noor.
Người
Muslim nói tiếng Việt hiện nay có thể tìm hiểu ý nghĩa của Kinh Qur’an bằng
tiếng Việt qua bản dịch Việt ngữ do học giả Hassan Bin Abdul Karim (Từ Công
Thu) chuyển ngữ. Cuốn “Thiên kinh Qur’an – Ý nghĩa và nội dung” đã được nhà
xuất bản Tôn giáo ấn hành lần đầu vào năm 2001 và tái bản lần thứ hai. Cuốn này
cũng được nhà vua Fahad bin Abdul Aziz Al-Saud của vương quốc Ả Rập Xê-út cho
xuất bản tại đây.
Sự
khác nhau giữa hai nhóm muslim ở Việt Nam
Sự
khác nhau về vị trí địa lý, hoàn cảnh truyền đạo, điều kiện sống và mức độ giao
lưu với bên ngoài, nhất là với thế giới muslim, đã hình thành hai khối người
Chăm theo đạo Islam ở Việt Nam: một là, khối người Chăm theo đạo Islam ở
Ninh Thuận, Bình Thuận là khối Islam cũ hay còn gọi là Chăm Bà Ni; hai là,
khối người Chăm theo Islam ở Châu Đốc (An Giang), Thành phố Hồ Chí Minh, Tây
Ninh, Đồng Nai là khối Islam mới hay còn gọi là Chăm Islam. Tuy nhiên,
như đã nói ở phần trên, sau năm 1959, một số người Chăm Bà Ni được tiếp xúc với
người Chăm Islam ở thành phố Hồ Chí Minh và quay trở lại, tuân theo giáo lý,
kinh sách của người muslim chính thống, trở thành nguồn gốc của người Chăm
Islam ngày nay ở Ninh Thuận. Họ chiếm khoảng 10 % tổng số người Chăm ở vùng
Ninh - Bình Thuận.
Giữa
hai khối người Chăm theo Islam có sự khác biệt đáng kể về mặt tôn giáo, từ kinh
sách đến các tín điều và nhất là luật lệ, lễ nghi. Có thể khái quát một số điểm
chính sau:
Islam
ở Ninh Thuận, Bình Thuận (Chăm Bà Ni) chịu nhiều ảnh hưởng phong tục tập quán,
tín ngưỡng truyền thống, nhất là sự pha trộn với những yếu tố của đạo Bà la môn
và chế độ mẫu hệ. Người Chăm Bà Ni hiện có khoảng 30.000 người, sống trong các
thôn ấp riêng rẽ đối với người Chăm, có một hệ thống chức sắc lãnh đạo chuyên
nghiệp, trong dân gian gọi là các Thầy Chang, đảm bảo thực hiện các lễ nguyện,
nhịn chay, và các lễ cúng của gia đình, còn người dân thì chỉ mang vật cúng đến
thánh đường mà thôi. Thiên Kinh Qur’an cũng còn được duy trì, nhưng là bản được
sao chép tay qua nhiều thế hệ nên đã thay đổi nhiều nét và cách đọc có nhiều âm
khác lạ không còn là tiếng Ả Rập nguyên gốc nữa. Tình trạng sai lệch đó nguyên
là do sống cô lập trong thời gian dài không có giao lưu với bên ngoài, nên một
số vị chỉ muốn nhận mình là người Bà Ni để tự phân biệt ngay cả với đạo
Islam, thường được phát âm là A-xa-lam. Linh mục Durand, trong bài nghiên cứu Les
Chams Ba Ni, đã suy luận chữ Bà Ni do từ Beni
tiếng A Rập có nghĩa là con, tức con của Muhammad. Sự thực từ Bà Ni
trong tiếng Chăm có nghĩa là đạo, ý muốn nói đến người theo đạo còn những người
khác là người ngoại. Mặc dầu cho đến nay chưa có cuộc nghiên cứu phân tích khoa
học thực sự đi vào thực chất hành đạo của người Chăm Bà Ni hiện dịnh cư tại
tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Bình Thuận, có những bằng chứng sơ khởi xác định người
Chăm Bà Ni chính là người Muslim:
1)
Dạng bản Thiên Kinh Qur’an mặc dầu ngày nay đã biến đổi nhiều và không còn gọi
là Qur’an nữa mà thường đọc chệch ra là Qur’ưn hoặc Kitab Alhămđu, nhưng thực
chất vẫn là Qur’an.
2)
Các thánh đường mặc dầu ngăn cách đã lâu với bên ngoài vẫn được xây cất theo
đúng hướng Qiblat, tức hướng Thánh Địa Makkah của đạo Islam.
3)
Niên lịch sử dụng và cách tính năm tháng hoàn toàn đúng với niên lịch Hijrah
hiện hành của Islam. Tại tỉnh Ninh Thuận, một vài thôn ấp Chăm Bà Ni ngày trước
đã giao lưu với các đồng đạo Muslim tỉnh An Giang và đã lập các cộng đồng
Muslim đúng theo nề nếp Islam tại Văn Lâm, An Nhơn, Phước Nhơn, v.v... Nhất là
tại Phước nhơn, một Masjid mới được xây dựng cách khoảng thánh đường của
người Bà Ni trong tầm nhìn thấy nhau, tạo nên triển vọng một ngày nào đó cả hai
cộng đồng càng xích lại tìm hiểu nhau, xóa tan ngăn cách, và hòa hợp với nhau
trong tình nghĩa mọi người Muslim đều là anh em như lời phán dạy của Allah
trong Thiên Kinh Qur’an.
Các
quy định của Islam bị bóp méo và không hoàn toàn được tôn trọng. Năm trụ cột
của Islam, các đại lễ được thực hiện tượng trưng bởi thầy Chang. Họ không đi
hành hương và không giữ được mối liên hệ với các trung tâm Islam khác. Các tín
đồ không học kinh Qur’an và giáo luật Shari’ah. Việc cắt bao quy đầu cho trẻ em
trai cũng bị huỷ bỏ. Thanh niên đến tuổi 16 được làm lễ cắt tóc (Nga Oroh) để
trở thành người Muslim. Các thầy Chang của Chăm Bà Ni có vai trò quan trọng
dưới tác động của chế độ đẳng cấp. Họ được trao nhiều quyền lợi vật chất và
tinh thần và ảnh hưởng tới cuộc sống xã hội và tôn giáo của tín độ. Tuy nhiên,
tầm ảnh hưởng của họ lên tín đồ chỉ hạn chế trong giới hạn nhất định, chủ yếu
là ở thánh đường.
Người
muslim ở Ninh Thuận và Bình Thuận tỏ ra rất tôn trọng phụ nữ. Họ có quyền tới
thánh đường như nam giới. Hơn nữa, họ còn quyết định mọi khía cạnh vật chất. Họ
được phép đi ra ngoài, họ có quyền chủ động cầu hôn đàn ông. Chế độ mẫu hệ còn
được thực hành tại đây, người chồng phụ thuộc nhiều vào vợ và gia đình nhà vợ.
Ngược
lại với họ, người Muslim Chăm ở vùng Châu Đốc (An Giang), Thành phố Hồ Chí
Minh, Tây Ninh, Đồng Nai tuân thủ đầy đủ các luật lệ, lễ nghi của Islam. Đặc
biệt, Islam ở đây có mối quan hệ với thế giới Islam qua việc hành hương sang Makkah,
cử người đi học ở Malaysia , Indonesia
và Ả Rập Xê-út, thi xướng Kinh Qur’an hàng năm...
Trong
khối Chăm Islam phải kể đến vai trò, ảnh hưởng của người Mã Lai và Islam Malaysia .
Tuy số người Mã Lai sống trong cộng đồng người Islam ở vùng Châu Đốc không
nhiều và thường bị Chăm hoá, nhưng ảnh hưởng của người Mã Lai là rất lớn đến
nhiều mặt, từ cơ cấu xã hội đến các sinh hoạt tôn giáo tinh thần. Trong những
điều kiện phát triển giao lưu với cộng đồng Muslim Mã Lai như trên, cộng đồng
Muslim Châu Đốc, theo truyền thống, hành đạo theo trường phái Shafi’y và
do khuynh hướng tự nhiên bảo tồn căn tính (identity) của dân tộc đã theo khuôn
mẫu Mã Lai dùng mẫu tự A-rập để viết chữ Chăm để đồng thời đọc Thiên Kinh Qur’an
luôn, còn chữ Chăm cổ truyền thì theo thời gian không còn mấy người biết nữa
trong cộng đồng người Chăm Châu Đốc. Trước đây, Kinh Qur’an ở vùng này được đọc
bằng tiếng A-rập nhưng bình giảng bằng tiếng Mã Lai. Những chức sắc, thầy dạy
kinh Qur’an phần lớn là người Mã Lai. Các ấn phẩm tôn giáo cũng được đưa từ Malaysia sang.
Thậm chí xu hướng đưa thêm những cái mới vào Islam cũng chịu ảnh hưởng từ Malaysia .
Thời
cuộc khó khăn của những thập niên sau nầy đã làm gián đoạn một thời gian dài
các dòng giao lưu tôn giáo giữa Chăm Châu Đốc và Mã Lai, cho mãi đến thập niên
1960, có điều kiện nối lập, người Chăm Islam ở Việt Nam mới được biết rằng sau
khi thu hồi độc lập và thành lập nước Malaysia, người Mã Lai đã có thứ chữ mới
gọi là Malayurumi được hình thành với mẫu tự Latin và được thông dụng
trong các cơ quan nhà nước cũng như trong dân gian, còn thứ chữ cũ gọi là Javi
cùng khuôn mẫu chữ mà người Chăm Islam vẫn sử dụng thì nay đã lùi về quá khứ,
chỉ còn được dùng trong khuôn khổ giới hạn trong sinh hoạt tôn giáo tại một số
địa phương nhất định mà thôi. Nhắc đến sự kiện nầy, chúng tôi muốn nêu lên một
yếu tố thuận lợi chủ yếu đã góp phần làm cho sinh hoạt tôn giáo của người Chăm
Islam tại Việt Nam có tính tương đối khép kín, có ngôn ngữ riêng, chữ viết
thông dụng riêng, tín ngưỡng riêng đối với môi trường bao quanh là xã hội Việt
Nam nói chung. Trong một thời gian dài, người Chăm Islam Châu Đốc đã kết hợp
với niềm tự hào dân tộc, ít có gia đình nào chịu cho con em đến trường học
chương trình phổ thong, ngoài ra, các bậc phụ huynh một phần cũng còn mang mặc
cảm e ngại con em mình khi được đi học phổ thông thì lại hấp thụ nếp sống khác
biệt, trong giao dịch sẽ uống rượu, cờ bạc, giao hợp sinh lý vụng trộm gọi là zina,
vốn là những điều giáo luật răn cấm (haram) và nếu phạm phải sẽ gây sỉ nhục cho
dòng họ trong xóm làng.
Tuy
nhiên theo đà phát triển, nền kinh tế tự cung tự cấp ở địa phương đơn thuần dựa
vào nghề chài lưới và dệt vải không còn đủ điều kiện bảo toàn miếng cơm manh áo
cho người dân trong vòng các thôn ấp nữa, người Chăm Islam Châu Đốc phải đi ra
ngoài kiếm sống, ban đầu là bằng những chiếc thuyền con cổ truyền nương theo
các kênh rạch sông ngòi, và chính những dịp đi ra ngoài nầy đã thúc đẩy người
Chăm Islam Châu Đốc nói và học nói tiếng Việt để chung đụng giao dịch thường
xuyên với người Việt. Vào thập niên 1920, một chiếc thuyền con đã mang một ông
lão người Chăm Islam Châu Đốc cùng với hai người con trai xuôi theo Kinh Chợ
Đệm, tỉnh Long An, đã ghé lại một bến của làng Tân Bửu có tên dân gian là Ba
Cụm, tình cờ đã vận dụng y học cổ truyền của mình chữa lành cho một người mang bệnh
ngặt nghèo, khiến cả gia đình nầy tin tưởng và đã nhập đạo Islam. Tại địa điểm
ghé bến nầy ngày nay đã xây được một Thánh Đường (Masjid) tạo thành cộng đồng (Jam’ah)
Muslim đầu tiên thường được gọi là Mu’al-laf gồm toàn người Việt. Cộng đồng Mu’al-laf
này tất nhiên không thể dùng tiếng Chăm để giảng sách, nếu muốn mọi người cùng
theo dõi am hiểu. Thế là từ đó, ngoài những bài thuyết giảng bằng miệng trong
các Masjid cho số tín đồ Muslim nói tiếng Việt ngày càng đông đảo, đã nảy sinh
nhu cầu về các tài liệu sách vở in ấn bằng tiếng Việt. Ngoài ra trong cộng đồng
người Chăm Islam Châu Đốc theo đà phát triển cũng đã phát sinh ý thức lợi ích
của việc cho con em đến trường phổ thông tạo thành một tầng lớp học sinh sinh
viên, vì điều kiện sinh sống và học hành không còn có thể đi theo dấu chân của
cha ông khép mình riêng trong các trường lớp cổ truyền thôn ấp nữa (Dohamide
Abu Talib, 1998)
Trước
kia, cộng đồng muslim Châu Đốc được coi là một thế giới Islam thu nhỏ của Đông
Dương Pháp thuộc.
Những
tổ chức Islam ở Việt Nam
Theo
nhà xuất bản Thế giới (2001), Islam tại Việt Nam
chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán, đặc điểm lịch sử và chế độ chính trị của
Việt Nam .
Ở Đông Dương, dưới thời Pháp thuộc, đại diện cao nhất của người Muslim Chăm và
Mã Lai là Say-Khon Islam (Siakh Khut Islam).
Trước
1975, trong Bộ Dân tộc (miền Nam Việt Nam ) có văn phòng Phó chủ tịch nhóm
người Chăm. Người này đại diện cho toàn bộ người Chăm (cả Bà la môn và Islam).
Từ
1955 - 1960, chính quyền Ngô Đình Diệm thành lập Hội người Muslim Chăm Việt Nam
(Cham Vietnam Muslim Association - CAMA) có văn phòng đặt tại Sài Gòn. Ban đầu
Hội có 3 chi hội với hàng trăm tín đồ. Năm 1964, tất cả các vùng Chăm Islam đều
có chi hội với 1500 thành viên. Năm 1975 số chi hội đạt 16 với 3 ban đại diện.
Việc
thành lập CAMA và sự đưa vào một “tôn giáo” mới từ Malaysia đã gây nên mâu
thuẫn nội bộ giữa Islam “cũ” và Islam “mới”. Cuối cùng vào năm 1966, hai trong
số các chi hội đã đồng thuận lập nên một tổ chức mới gọi là "Vietnam Great
Islamic Council" (Hội đồng Islam Việt Nam vĩ đại) có văn phòng ở tỉnh Châu
Đốc. Cả CAMA và tổ chức mới tồn tại đến năm 1975, chỉ ảnh hưởng lên Chăm Islam
chứ không ảnh hưởng đến Chăm Bà Ni.
Tài liệu tham khảo
1.
Bá Trung Phụ. Cộng đồng người Chăm Islam giáo ở Việt Nam với đời sống xã hội. Tạp
chí Nghiên cứu tôn giáo, số 2. 2005. Trang 39 - 41.
2.
Maspero. J. Royaume de Champa. Paris .
1909. p. 25.
3.
Hourani, George F. "Arab Seafaring". Princeton
University Press, New Jersey . 1979.
4.
Nhà xuất bản Thế giới. Những vấn đề về tôn giáo ở Việt Nam. Hà Nội
2001.
5.
Ban Tôn giáo Chính Phủ,
Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam .
Sách trắng về “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam ”. 1/2/2007.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét