Thứ Hai, 1 tháng 10, 2012

Hồi giáo ở Việt Nam


I. TỔNG QUAN VỀ ĐẠO HỒI
Thế giới có khoảng 2700 tôn giáo đáng kể, nhưng hiện nay chỉ có 3 tôn giáo được coi là “tôn giáo thế giới”, vì đã trên 1000 năm,có hàng trăm triệu tín đồ ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Đó là đạo thờ chúa Ki-tô, Phật giáo và đạo Hồi.Là một tôn giáo thế giới, đạo Hồi có vị trí, nội dung, tổ chức và ảnh hưởng văn hóa mang tầm quốc tế.Hồi giáo còn gọi đạo Islam, là một tôn giáo độc thần thuộc nhóm các tôn giáo Abraham. Nguyên nghĩa của « Hồi giáo » trong tiếng Ả Rập là Islam và có nghĩa là "vân mệnh, quy phục Thượng Đế". Người theo Islam, trong tiếng Ả Rập gọi là Muslim. Đạo Islam người Trung quốc gọi là đạo hồi, đạo Thiên Phương hoặc đạo Thanh Chân
1. Sự ra đời của đạo Hồi:Ả Rập là cái nôi sinh thành và phát triển của Đạo Hồi Trên thế giới hiện nay, đạo Hồi là tôn giáo thứ hai sau Kitô giáo : Kitô giáo 1.940.000.000 tín hữu, đạo Hồi 1.200.000.000 đạo hữu. Riêng tại Cộng Đồng Châu Âu, ở Pháp có 4.500.000 người đạo Hồi (Ngoài ra còn 45.000.000 công giáo, 850.000 người Tin lành, 600.000 người Phật giáo và 150.00 người Chính thống giáo), nước Đức có 3.630.000, nước Anh 1.190.000, nước Ý 690.000, nước Hòa Lan 640.000, nước Bỉ 280.000, nước Tây Ban Nha 280.000, nước Thụy Điển 210.000, nước Ao 180.000, đảo Chypre 160.000 người hồi giáo.
Tuy nhiên các nước Ả Rập mới là nôi sinh của đạo Hồi.Khi nói đến đạo Hồi, người ta nghĩ đến khối Ả Rập, và khi nói đến khối Ả Rập, người ta nghĩ đến đạo Hồi. Lý do vì đạo Hồi ra đời giữa người Ả Rập và lan tràn khắp thế giới nhờ người Ả Rập. Chính tại Ả Rập mà người ta tìm ra những di tích, những địa điểm lịch sử của đạo Hồi. Hơn thế ngôn ngữ Ả Rập là ngôn ngữ của sách Coran. Nó mang tính cách thần thiêng. Cũng là ngôn ngữ cầu nguyện theo nghi thức chung cho mọi tín đồ đạo Hồi. Hơn thế, mọi thổ ngữ quen thuộc trong dân chúng theo văn hóa Ả Rập đều bắt gốc từ ngôn ngữ Ả Rập của CoranSự ra đời của đạo hồi xuất phát bởi một loạt nguyên nhân về kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng; nó gắn liền với những biến chuyển xã hội, từ chế độ công xã nguyên thuỷ sang chế độ xã hội có giai cấp. Lịch sử thống nhất nhà nước Ảrập thành một nhà nước phong kiến độc quyền, đồng thời trên cơ sở thống nhất giữa các tín ngưỡng, tôn giáo trên bán đảo Ảrập nhằm thay thế những tôn giáo đa thần bằng tôn giáo độc thần. Mohammed được coi là người sáng lập đạo Hồi. Mohammed là người Mecca, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, song lại rất thông minh. Vào quãng bốn mươi tuổi, Mohammed xuất hiện như một người có nhiều uy tín, rất được kính trọng trong xã hội ông sống. Người ta gọi ông là El Amin nghĩa là người khôn ngoan và lương thiện.Ông đã được thánh Allah truyền đạt thần dụ, tiếp thu sứ mệnh của chân chủ và trở thành người truyền đạo, ông được coi là người đầu tiên sáng lập ra hồi giáo.
2. Sự phát triển của đạo Hồi: 
Sau khi nhận được sự phán truyền, đầu tiên Mohammed bí mật truyền giáo trong số những bạn bè thân thiết và họ trở thành những tín đồ đầu tiên. Ông truyền bá những tư tưởng bình đẳng, lòng nhân từ và phê phán việc thờ phụng thần tượng.Trong 10 năm (611-621) sự truyền đạo trở nên công khai, đối tượng mở rộng tới quần chúng ở Mecca nhưng bị giới quý tộc đả kích và bức hại.Những người có thế lực thờ ơ với việc truyền đạo của ông, về những lời cảnh báo về địa ngục đang chờ họ, năm 621 những lời tiên tri có vẻ im ắng dần.những tín đồ nảy sinh nhiều quan điểm khác nhau, những người Mecca bắt đầu khủng bố họ, Mohammed bị các quý tộc tìm cách sát hại. Mohammed đã trốn được đến Yathrib (sau đổi thành Madinah - Thành phố tiên tri). Ở đây ông phát động và tổ chức quần chúng đấu tranh và cuộc cách mạng của ông giành được thắng lợi. Sau đó ông tổ chức vũ trang cho các tín đồ (Muslim) và dùng khẩu hiệu “Chiến đấu vì Allah” và đè bẹp được giới quý tộc ở Mecca. Từ năm 630 Cùng với việc mở rộng phạm vi truyền đạo Mohammed còn liên minh với các bộ tộc và dùng sức mạnh buộc các thế lực còn lại phải quy thuận theo Hồi giáo. Như vậy, Sau khi Hồi giáo ra đời đến năm 630, cùng với việc xây dựng lực lượng, tôn giáo này phải trải qua thời kỳ đấu tranh quyết liệt, kết hợp những cuộc "thánh chiến" với những hoạt động chính trị và ngoại giao, Mohammed và những người Hồi giáo đã chinh phục được thành Mecca và truyền bá Hồi giáo đến vùng này. Mohammed cùng những người anh em Hồi giáo xây dựng Mecca thành "Thánh địa " - trung tâm Hồi giáo thế giới cho tới ngày nay. Sau khi chinh phục thành Mecca, Hồi giáo đã trở thành một đế quốc bành trướng thế lực, tiếp tục mở rộng "thánh chiến" tấn công để mở rộng thế giới Hồi giáo. Mục tiêu trước hết là tiêu diệt người Do Thái ở Arabia, tàn sát và bắt những người có thái độ chống đối làm nô lệ cho người Hồi giáo chiến thắng. Từ năm 636, Hồi giáo bắt đầu những cuộc viễn chinh tấn công, mở đầu cho một thời kỳ truyền bá Hồi giáo sang các quốc gia khác. Cho đến thế kỷ XI, Hồi giáo trở thành một tôn giáo quốc tế, thống soái các quốc gia dân tộc từ Địa Trung Hải đến Vịnh Ba Tư. Vào khoảng ba thế kỷ sau (từ thế kỷ XIV đến XVI), Hồi giáo truyền bá xuống vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Có thể nói cuộc cách mạng do Mohammed lãnh đạo là một cuộc cách mạng tôn giáo và cải cách xã hội kết hợp với nhau. Sự ra đời của Hồi giáo đã mở ra một thời kỳ lịch sử mới thống nhất trên bán đảo Ảrập. Từ khi Mohammed qua đời, nội bộ Hồi giáo xảy ra nhiều cuộc tranh chấp quyền lực. Vì vậy, sau này Hồi giáo phải chia thành các dòng, các hệ phái khác nhau. Cho đến nay, Hồi giáo vẫn không có người thừa kế ngôi vị Khalifat (Giáo chủ). Đây là nguyên nhân chính, là hệ quả của việc Hồi giáo không có tổ chức giáo hội quốc tế. Từ thập niên 70 của thế kỷ XX trở lại đây, với sự gia tăng không ngừng số lượng tín đồ Hồi giáo trên thế giới làm cho dạng thức thuần nhất của Hồi giáo thời Mohammad không thể duy trì được mà đã có sự biến dạng thành những cộng đồng (Jamah) ngăn cách bởi chế độ xã hội của mỗi quốc gia. Theo đó, Hồi giáo cũng phát triển mối tương giao với những tín ngưỡng, tôn giáo khác. Chính vì vậy, các quốc gia có đông người Hồi giáo có khuynh hướng thành lập tổ chức Hồi giáo gắn với lãnh thổ của từng nước, kết hợp hoạt động tôn giáo với chăm lo đời sống mọi mặt cho cộng đồng. Mặt khác, một số tổ chức Hồi giáo quốc tế cũng ra đời, tuy nhiên các tổ chức này mang hình thức "liên hiệp" lỏng lẻo, không phải là tổ chức giáo hội quốc tế.Thời Mohammed đạo Hồi chỉ truyền bá ở bán đảo Arập.Sau đó cùng quá trình chinh phục Arập đạo Hồi đã truyền bá khắp Tây Á,Trung Á,Bắc Phi và Tây Ban Nha.Hiện nay, Đạo Hồi chia làm 2 giáo phái chính: phái Shiit và phái Sunni. Ngoài ra còn các phái như phái Ismail, phái bê-ka-it..
   Phái shiit: • Sau khi Mohammed chết từ (632-661), Arập có 4 calipha lần lượt được bầu ra là: Abu Bekr(632-634);Omar I (634-644); Uthman (644-656) và Ali (656-661). Tín đồ phái này cho rằng chỉ có Ali là dòng dõi của tiên triNăm 661 Ali bị ám sát họ coi Ali như vị thánhHọ coi nơi thờ Ali và Huxen là nơi thiêng liêng thứ 3 sau Kaaba và lăng MohammedHọ tin rằng dòng dõi Ali sẽ là những người rất sáng suốt là hóa thân của Chúa.Phái Xu-nit: 
   Phái Sunni là phái hồi giáo chính thống họ thừa nhận cả 4 calipha đầu tiên đều là những người kế thừa hợp pháp của Mohammed.Đa số tín đồ Hồi giáo theo phái này.
3. Đặc điểm của đạo Hồi:
a. Giáo chủ: 
Mohammed là người La Mecca, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, song lại rất thông minh. Vào quãng bốn mươi tuổi, Mohammed xuất hiện như một người có nhiều uy tín, rất được kính trọng trong xã hội ông sống Mohammed là người có chí hướng tôn giáo mãnh liệt, không thỏa mãn với hiện tượng đa thần kỳ quái của các bộ lạc Ả Rập. Lâu lâu ông tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện và suy tư. Nơi ông thường hay lui tới là hang động Hira, gần La Mekke. Chính trong hang động này, năm 610, ông đã thực hiện một tháng chay tịnh, ngày nay gọi là Ramadan. Và vào ngày 27 trong tháng Ramadan, ông được giác ngộ Trong đêm đó thánh Allah (Allah – Chân chủ) đã cử thiên sứ Gabrien đến truyền đạt Thần dụ và lần đầu tiên “khải thị” cho ông chân lý của Kinh Coran khiến ông trở thành “Thánh thụ mệnh”. Những lời nói của thiên sứ là những lời đầu tiên hình thành nên kinh Coran. Và ông tự xưng là đã tiếp thụ sứ mệnh của chân chủ trao cho và bắt đầu truyền đạo. Theo niềm tin của người hồi giáo, thì đây là lần đầu tiên ông lãnh nhận các mạc khải thần linh. Cho đến cuối đời, ông miệt mài trao truyền những mạc khải ông thụ lãnh. Đó là ‘đêm Định Mệnh’ được nói đến trong sách Coran (chương Coran 97, 74,81, 53). Dựa theo truyền thống đạo Hồi, thì qua biến cố này, ông được coi là người sáng lập Đạo Hồi.
b. Giáo lý (giáo lý của đạo Hồi được trình bày trong kinh Coran):
Tuy cùng một hệ thống nhất thần của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham nhưng giáo lý Hồi giáo không chịu ảnh hưởng tư tưởng của Cơ đốc giáo và Do Thái giáo. Không như những tôn giáo bạn, đạo Hồi chỉ có duy nhất một quyển thiên kinh Coran, . Đối với các tín đồ Hồi giáo, thiên kinh Coran là một vật linh thiêng, vì đó chính là lời phán của Allah Đấng Toàn Năng.Đặc điểm giáo lý của Hồi giáo là rất đơn giản nhưng luật lệ và lễ nghi rất phức tạp và nghiêm khắc thậm chí đến mức khắt khe và nhiều khi nó vượt ra khỏi phạm vi tôn giáo và trở thành một chuẩn mực pháp lý của xã hội. Trong Hồi giáo khó thấy ranh giới giữa cái thiêng và cái tục.• Giáo lý cơ bản của Hồi giáo là Kinh Coran (Coran theo nguyên nghĩa tiếng Ảrập là “tụng đọc”) vì đó là những lời nói của Mohammed được ghi lại và những lời này do thánh Allah thông qua thiên sứ Gabrien “khải thị” cho Mohammed. Kinh Coran tổng cộng có 30 quyển, 114 chương với 6236 tiết (là những đoạn thơ), được sắp xếp theo nguyên tắc dài trên ngắn dưới. Nội dung Kinh Coran vô cùng phong phú đại thể bao gồm những tín ngưỡng cơ bản và chế độ tôn giáo của đạo Hồi và những ghi chép về tình hình xã hội trên bán đảo Ảrập đương thời cùng với những chính sách về chủ trương xã hội, quy phạm luân lý đạo đức… 
Giáo lý Hồi giáo gồm các điểm cơ bản sau:
+ Allah là đấng tối cao sinh ra trời đất.
+ Allah là đấng tối cao sinh ra muôn loài trong đó có con người.
+ Con người là bình đẳng trước Allah nhưng số phận và tài năng tạo nên sự khác nhau giữa những con người + Số phận con người có tính định mệnh và do Allah sắp đặt.
+ Tín đồ Hồi giáo phải luôn có thái độ đúng: trong cộng đồng (Hồi giáo) thì phải kiên nhẫn chịu đựng, phục tùng Allah, đối với người ngoài thì phải kiên quyết bảo vệ mọi lợi ích của Hồi giáo và phải có tinh thần thánh chiến.
+ Ngoài Allah, người có vị trí quan trọng thứ hai đó là giáo chủ Mohammed, đây là sứ giả của Allah và tiên tri của tín đồ.Ông có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống của tín đồ.
+ Hồi giáo cũng cho rằng con người có 2 phần: thể xác và linh hồn, thể xác là vỏ bọc bên ngoài, còn linh hồn là bất tử. Ngoài ra còn có quan niệm về sự tái sinh sau khi chết, ngày tận thế, ngày phục sinh….Về y lý: khuyên bảo con người phải giữ gìn sức khỏe.
+ Những lời khuyên về đạo lý:
• Tôn thờ thần cao nhất là Allah. 
• Sống nhân từ độ lượng. 
• Thưởng phạt công minh, trừng phạt chủ yếu đối với kẻ thù. 
• Thánh chiến là thiêng liêng và bắt buộc. 
• Kiên định và nhẫn nại trong mọi thử thách. 
Tin vào định mệnh và sự công minh của Allah. 
• Cấm một số thức ăn: thịt heo, rượu bia và các chất có men. (Heo là con vật gắn với khởi nguyên: phát triển là nhờ chăn nuôi). 
• Trung thực. 
• Không tham của trộm cắp 
• Làm lễ và tuân thủ các nghi lễ Hồi giáo. 
c. Giáo luật và 5 trụ cột cơ bản của đạo Hồi:
Do quá trình phát triển của hồi giáo phải đương đầu với nhiều dân tộc có nền văn minh hơn, nên nảy sinh nhiều quy định và luật lệ mới cho phù hợp, từ đó cho ra bộ luật thứ hai của đạo hồi là Sariat. Đây trở thành cuốn luật phong tục của người hồi giáo và nó có 5 trụ cột cơ bản sau:
Shahadan - tuyên xưng đức tin. Mỗi tín đồ Hồi giáo phải tuyên thệ: không có thánh nào khác ngoài đấng Allah và Mohammed là nhà tiên tri và là sứ giả của ngài.
Salat - sự cầu nguyện. Các tín đồ Hồi giáo phải cầu nguyện 5 lần trong một ngày: lúc sáng sớm khi bình minh hé rạng và phải trước khi mặt trời đã lên hẳn trên đường chân trời; buổi trưa lúc mặt trời đứng bóng; buổi chiều lúc mặt trời nghiêng 45 độ so với mặt đất; lúc mặt trời lặn và buổi tối trước khi đi ngủ.
* Zakat - bố thí cho người nghèo. Người theo đạo Hồi phải thực hiện một nghĩa vụ mà tự mình, nhà tiên tri Mohammed là người nêu tấm gương sáng, đó là bớt đi một phần tài sản của mình để giúp đỡ người nghèo. Con số thông thường là 2,5% thu hoạch hàng năm, hay 10% lợi tức từ mùa màng hoặc kinh doanh của họ. Những người giàu có được khuyến khích làm từ thiện nhiều hơn. Những ai làm từ thiện nhiều hơn số lượng quy định được coi là là một Sadagah - người thiện tâm.
* Sawm - nhịn ăn, uống trong tháng ăn chay Ramadan. Mỗi ngày trong tháng ăn chay Ramadan, tất cả các tín đồ Hồi giáo, chỉ trừ trẻ em, phụ nữ có thai và những người ốm, đều phải nhịn ăn từ lúc rạng sáng cho đến khi mặt trời lặn. Trong tháng ăn chay, người Hồi giáo không những nhịn ăn mà còn phải nhịn uống, dù đó là nước khoáng, nước suối, nước lọc tinh khiết hay đơn giản chỉ là nước đun sôi để nguội. Tháng ăn chay cũng đồng thời là tháng trai giới, các tín đồ Hồi giáo trong thời gian từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn không được động phòng.
* Hajj - hành hương đến Mecca. Mecca, thành phố thiêng liêng bất tử ở Arập Xê -út, quê hương của Mohammed, là thánh địa của người Hồi giáo. Người Hồi giáo muốn đắc đạo thì ít nhất trong đời phải đến được thành phố Mecca - nơi có ngôi đền thờ thượng đế Kaaba, trong đó có hòn đá thiêng để cầu nguyện và được hôn hoặc sờ tay vào đó một lần. Đức tin của người Hồi giáo về Mecca và về cuộc hành hương Hajj gắn liền với vai trò của thành phố này trước kỷ nguyên Hồi giáo, khi đó đã là một trung tâm thần thánh, một địa điểm tôn nghiêm và là nơi thờ phụng của các tôn giáo đa thần. Theo đức tin Hồi giáo thì Mecca chính là trung tâm của thế giới, là nơi khởi đầu của sự sáng thế. Abraham, vị tiên tri đầu tiên của tôn giáo độc thần đích thực đã được Chúa trời triệu gọi để đi từ Palestine đến chính cái thung lũng này, nơi mà ngày nay gọi là Mecca. Và ông cùng con trai Ishmail đã xây dựng ở đây một ngôi đền thờ thượng đế theo hình một khối lập phương, đó chính là đền Kaaba.
Bên cạnh các trụ cột cơ bản của đạo Hồi, người Hồi giáo có một số tập quán riêng rất đáng chú ý:
* Họ tên của người theo đạo Hồi (thường là ở các nước Arập) thường có tên bố và tên ông nội. Ví dụ: Ali bin Ahmed bin Saled al-Fulani có thể dịch là anh Ali, con trai ông Saled, cháu nội ông Saled, mang dòng họ Fulani hoặc Nura bint Ahmed Bin Saled al -Fulani có thể dịch là cô Nura, con gái ông Ahmed, cháu nội ông Saled mang dòng họ Fulani[4].
Người theo đạo Hồi không ăn thịt lợn. Kinh Coran cấm người theo đạo Hồi ăn thịt lợn. Có nhiều cách giải thích khác nhau, tuy nhiên người Hồi giáo thường giải thích quy định này một cách khá đơn giản và dể hiểu. Khi người ta chết, thể xác tan biến vào lòng đất còn linh hồn sẽ được lên thiên đường hoặc xuống địa ngục. Đấng Allah chỉ cho phép những người có linh hồn trong sạch lên thiên đường. Do lợn là động vật tạp ăn, ăn tất cả những gì người ta đổ vào máng, vì vậy lợn không thể có dòng máu trong sạch như những động vật ăn cỏ. ăn thịt lợn, người Hồi giáo cho rằng, linh hồn con người có thể bị nhiễm bẩn nên không thể lên thiên đường được.
* Người phụ nữ che mạng hoặc quàng khăn qua đầu. Trong thời kỳ phong kiến, người phụ nữ Hồi giáo có một địa vị thấp kém và bị phân biệt đối xử so với nam giới. Người phụ nữ ra đường phải đeo mạng che mặt vì một quan niệm rất phổ biến trong thế giới Hồi giáo lúc bấy giờ là người phụ nữ chỉ được phép tiếp xúc với những người thân trong gia đình và không được phép để những người lạ thấy mặt mình. Trong thời kỳ hiện đại, trừ một số nước Hồi giáo cực đoan, còn hầu hết các nước Hồi giáo đã cho phép phụ nữ ra đường không đeo mạng che mặt. Thay vào đó, họ thường quàng một chiếc khăn qua đầu ngay cả những ngày thời tiết nóng nực. Một số ít nước Hồi giáo như Thổ Nhĩ Kỳ, người phụ nữ thành thị đã hoàn toàn thoát khỏi phong tục che mạng, họ cũng không quàng khăn qua đầu; ăn mặc thì theo phong cách hiện đại.
* Chế độ đa thê. Theo tục lệ Hồi giáo, người đàn ông có thể lấy bốn vợ với điều kiện phải cư xử với các bà vợ bình đẳng như nhau. Trong thời kỳ phong kiến, người đàn ông có nhiều vợ thường được xã hội tôn trọng do quan niệm cho rằng, đó là những người đàn ông khoẻ mạnh và giàu có. Ngày nay, tư duy này đã được thay đổi ở nhiều quốc gia Hồi giáo, bởi chế độ hôn nhân một vợ, một chồng ngày càng được phổ biến trong xã hội.*Cắt bao quy đầu cho các bé trai. Một tục lệ khá phổ biến của người Hồi giáo là cắt bao quy đầu cho các bé trai từ hai đến năm tuổi. Cắt bao quy đầu là giáo luật đối với các nam tín đồ Hồi giáo và sự kiện này được ăn mừng như một ngày lễ. Như lễ đầy tháng ở Việt Nam, gia đình của bé trai thường làm tiệc thết đãi họ hàng và bạn hữu.
* Phong tục tang lễ. Phong tục tang lễ của người Hồi giáo khá đặc biệt so với các tôn giáo khác. Người chết phải được chôn trong vòng 24 tiếng đồng hồ kể từ khi chết, nhưng không được chôn vào ban đêm. Người Hồi giáo tin rằng sau khi chết, con người sẽ được về với đấng Allah. Sau khi thi thể được tắm rửa, người chết được quấn trong một tấm vải để hở mặt cho người thân đến viếng. Người chết được mai táng trong tấm vải lượm đó mà không cần bất cứ một quan tài nào, vì như vậy, theo quan niệm của người Hồi giáo, thi thể chóng tan vào lòng đất và người chết sẽ sớm được lên thiên đường. Huyệt mộ phải được đào sâu sao cho khi đấng Allah gọi và người chết ngồi dậy thì đầu không cao hơn mặt đất. Chân người chết phải hướng về thánh địa Mecca ở Arập Xê -út để khi được gọi, người chết nhằm hướng đó mà đi. ởnhiều nơi, người chết được chôn nằm nghiêng về bên phải, mặt quay về hướng Mecca.
* Phụ nữ và hôn nhân gia đình: Hồi giáo đánh giá thấp vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.Phụ nữ ra đường phải che mặt,không được tự ý tiếp xúc với đàn ông,giữ gìn trinh tiết đén khi lấy chồng, phải chung thủy, không được phếp ngoại tình, không được chủ động trong việc ly hôn. Nếu làm trái sẽ bị xử rất nặng theo đạo hồi, có thể còn bị tử hình.Người hồi giáo dựng vợ gả chồng từ rất sớm, thong thường từ 10 tuổi trở lên. Cấm những kết hôn với mệ ghẻ, con gái, anh chị em ruột, mẹ nuôi…Nói tóm lại, luật lệ hồi giáo rất nhiều, rất chi tiết và khắt khe, trở thành tiêu chuẩn pháp lý trong đời sống xã hội, chi phối mọi hoạt động của tín đồ. Ở mỗi nước khác việc áp dụng luật ở mức khác nhau, có những nước sử dụng nó song song với dân luật, hình luật.
d. Tổ chức Hồi giáo
Thánh đường Hồi giáo là nơi sinh hoạt tập thể và có tính thiêng với các tín đồ. Thánh đường gồm có Đại Thánh đường và Tiểu Thánh đường. Tất cả các thánh đường hồi giáo diieeuf phải làm theo hướng quay về phía Mecca. Trong Thánh đường có bài trí đơn giản, không bàn ghế, không có đồ thờ quý hay nhạc cụ.Chỉ có 1 không gian trống trải , rộng lớn, sạch sẽ, đẹp; tường, trần nhà, mái vòm được trang trí bằng những nét kỷ hà hay chữ Arap, bên trong chỉ có chiếc gậy mà theo truyền thuyết là của giáo chủ Môhammet đã dùng nó để đi truyền đạo.- Hệ thống chức sắc gồm có Giáo chủ (Mufty), phó giáo chủ (Naib Mufty), Giáo cả (Ha Kim), phó giáo cả (Naib Ha Kim), Imân, Khatib, Tuan, Bilat, Slak, HaDji.
e. Hệ thống nghi lễ
Trong năm, đạo Hồi có nhiều ngày lễ : 

• Lễ ‘Muharram’ tức ngày đầu năm tưởng nhớ Mohammed di tản tới Médine.

• Lễ ‘Mulud’, lễ có tính cách bình dân để kỷ niệm ngày sinh nhật của Mohammed. Lễ này bị nhiều người chống đối vì không được dành một phụng tự nào cho Ngôn Sứ của Thiên Chúa.

• Lễ ‘Đêm Định Mệnh’, cử hành vào ngày 27 tháng Ramadan, kỷ niệm ngày Mohammed nhận được mạc khải đầu tiên.

• Lễ ‘Achoura’ : Ngày thứ 10 trong năm, đối với ngành Chiites rất quan trọng : Họ kỷ niệm ngày tạ thế của Hocéine là cháu của Mohammed tử đạo vì đức tin.

• Hai lễ quan trọng hơn cả : lễ ‘Kết thúc tháng Ramadan’ và ‘Hiến tế của Abraham’.
Lễ kết thúc tháng chay Ramadan (Aid es Seghir).

Trong lễ này, nổi bật tinh thần ‘đổi mới thiêng liêng’ của người Hồi giáo sau tháng chay tịnh. Đây là lúc mọi tín đồ thi nhau làm việc bố thí, góp tiền giúp đỡ dân nghèo khổ, đói kém... Theo truyền thống, mọi người được mời đến cầu nguyện chung ở ngoài trời, bạn bè chúc nhau thăng tiến đời sống. «Chớ gì lễ này trở thành lời chúc phúc cho chúng tôi, cho các bạn và cho nhiều người khác » Lễ này cũng được gọi là lễ ‘giải hòa’.

- Lễ hiến tế của Abraham (Aid el kbir).

Lễ này cử hành vào ngày thứ bảy mươi sau tháng Ramadan, nhắc lại cuộc hiến tế của Abraham. Câu chuyện được kể lại trong Coran (Cr 37,102-109). Theo lệnh của Thiên Chúa, Abraham không sát tế con mình là Isaac ( Ismael, theo truyền thống của đạo Hồi), nhưng là con cừu đực. Chính vì thế, chủ yếu của ngày lễ là ‘cắt cổ một con cừu, rồi nấu lên và cả gia đình cùng ăn, có thể mời lối xóm đến dùng chung’, để nhắc nhở : người tin tưởng thật sự là người quy phục Thiên Chúa theo gương Abraham.Lễ kết thúc tháng chay Ramadan (Aid es Seghir).

Trong lễ này, nổi bật tinh thần ‘đổi mới thiêng liêng’ của người Hồi giáo sau tháng chay tịnh. Đây là lúc mọi tín đồ thi nhau làm việc bố thí, góp tiền giúp đỡ dân nghèo khổ, đói kém... Theo truyền thống, mọi người được mời đến cầu nguyện chung ở ngoài trời, bạn bè chúc nhau thăng tiến đời sống. «Chớ gì lễ này trở thành lời chúc phúc cho chúng tôi, cho các bạn và cho nhiều người khác » Lễ này cũng được gọi là lễ ‘giải hòa’.

- Lễ hiến tế của Abraham (Aid el kbir).

Lễ này cử hành vào ngày thứ bảy mươi sau tháng Ramadan, nhắc lại cuộc hiến tế của Abraham. Câu chuyện được kể lại trong Coran (Cr 37,102-109). Theo lệnh của Thiên Chúa, Abraham không sát tế con mình là Isaac ( Ismael, theo truyền thống của đạo Hồi), nhưng là con cừu đực. Chính vì thế, chủ yếu của ngày lễ là ‘cắt cổ một con cừu, rồi nấu lên và cả gia đình cùng ăn, có thể mời lối xóm đến dùng chung’, để nhắc nhở : người tin tưởng thật sự là người quy phục Thiên Chúa theo gương Abraham.quy tắc ăn mặc Cách ăn mặc trong Hồi giáo nhấn mạnh sự giản dị. Cả phụ nữ và nam giới không được mặc quần áo qua mỏng hay quá chật để lộ cơ thể. Đối với nam giới, họ phảI mặc kín từ mắt cá tới rốn. Đối với phụ nữ, họ phải mặc kín chỉ để hở bàn tay và mặt, không nhất thiết phải che mạng

4. Thành tựu và hạn chế của đạo hồi:
a. Thành tựu:
- Định hướng hành vi và hoạt động của con người. Sự tin tưởng và phục tùng của các tín đồ Hồi giáo vào thánh Alla và những điều ghi trong kinh Coran(nghĩa vụ của các tín đồ) Vd: cấm không được uống rượu….có các chuẩn mực về đạo đứcCác tín đồ phải đóng thuế cho đạo nhằm xây cất thánh thất và bố thí cho người nghèo mang tính nhân đạoMỗi năm có một tháng ăn chay(Ramadan) thể hiện tinh thần thanh khiết,là dịp các tín đồ trau dồi phẩm hạnhGóp phần hoàn thiện nhân cách con người,hướng con người tới Chân – Thiện – Mỹ.Cầu nguyện,bố thí,nhịn ăn và hành hương là 4 bổn phận của Hồi giáo thêm lòng tin vào Alla và vị tiên tri nữa thành 5 cái trụ cột của Hồi giáo.
Một thành tựu nữa đó là Kinh Coran - bộ thánh kinh điển,là quyển bách khoa tri thức của người Hồi chứa đựng các nguyên tắc tôn giáo,đạo đức,pháp luật,nó cũng là cơ sở cơ bản để xây dựng pháp luật 
Đạo Hồi luôn có những ‘căng thẳng’ nội bộ: chính thống và tà giáo, bảo thủ và cấp tiến hay phản kháng, canh tân và cách mạng, chủ hòa và bạo động, ôn hòa và cuồng tín.Những ‘căng thẳng nội bộ’, nhìn vào một khía cạnh nào đó, cũng là một dấu hiệu tốt về ‘sự thức tỉnh’ sống đức tin, ‘nỗ lực hội nhập và thích ứng’ với những thay đổi và tiến bộ không ngừng của thế giới con người.
b. Hạn chế
• Giống như vấn đề nhân quyền nói chung, quyền phụ nữ từ lâu là một vấn đề gây tranh cãi giữa các chế độ xã hội khác nhau. Tình trạng bất bình đẳng giữa nam và nữ vẫn tồn tại, và ở nhiều trường hợp còn trầm trọng thêm như ở Trung Đông, Nam á, và cận - Phi châu. Mặc dầu cuộc sống bị o ép của người phụ nữ được xem như là một yếu tố ngăn cản sự phát triển xã hội, nhưng đề cập tới việc giải phóng phụ nữ đôi khi còn bị coi là mưu toan lật đổ chế độ. • Vd:Tại Irắc, Arập Xêut, và Apganixtan cũng như phần nào ở Nigiêria, Inđônêxia, và Pakixtan, vấn đề quyền phụ nữ gây căng thẳng giữa khuynh hướng cực đoan tôn giáo và quan điểm tiến bộ. Giải quyết vấn đề này là điều quan trọng đối với các quốc gia. Bởi việc coi rẻ phụ nữ có thể dẫn đến đình đốn về kinh tế, thể chế dân chủ không phát triển và thường có xu hướng quá khích.

Vấn đề đa thê: Chương IV của sách Coran nói nhiều đến quyền hạn và bổn phận của người đàn ông mà không đề cập gì tới quyền của người phụ nữ. Đàn ông có thể cưới nhiều vợ• Luật lệ khắt khe:-Phân biệt, kỳ thị những người theo đa thần giáo- Luật lệ và nghi lễ của đạo Hồi rất phức tạp,nghiêm khắc 

II. ĐẠO HỒI Ở VIỆT NAM
1. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội hình thành từ lâu trong lịch sử và có ý nghĩa vô cùng quan trọng ảnh hưởng tới đời sống kinh tế - xã hội của Việt NamViệt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Do thuộc khu vực Đông Nam Á ba mặt giáp biển nên tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu văn hóa giữa các vùng trong khu vực và trên thế giới.Có thể nói Việt Nam là bảo tàng tôn giáo của thế giới với 6 tôn giáo chính: Tôn giáo có nguồn gốc từ phương đông: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo.Tôn giáo có nguồn gốc từ phương tây: Thiên chúa giáo và Tin Lành Có những tôn giáo được sinh ra ở Việt Nam như: Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo. Có những tôn giáo hoàn chỉnh,phát triển ổn định,có những tôn giáo sơ khai đang tìm hướng phát triển. Vấn đề tôn giáo ởViệt Nam là một vấn đề phức tạp đòi hỏi Đảng và nhà nước có chính sách” đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân” góp phần ổn định chính trị và phát triển kinh tế xã hội.
2. Sự du nhập và phát triển của đạo hồi ở Việt Nam:
Hồi giáo là một danh từ mà những người Việt Nam dùng để chỉ cho những người đi theo tôn giáo Islam nói chung. Là láng giềng của một quốc gia có đông tín đồ Hồi giáo nhất trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, cộng đồng Hồi giáo chỉ chiếm một tỷ lệ rất thấp so với toàn thể dân số Việt Nam (0.075%). Tín đồ hồi giáo chủ yếu là người Chăm, có khoảng 70 nghìn tín đồ tập trung ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang,TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai.Hồi giáo du nhập vào Việt Nam qua các thời điểm khác nhau. Theo Tống sử Trung Quốc thì thế kỷ X đã thấy người Chăm khi giết trâu để cúng, họ đều cầu nguyện câu kinh đề cao Thượng đế Allah của người Hồi giáo, điều này có thể giả định từ thế kỷ thứ X, Hồi giáo đã được truyền vào đất Chiêm Thành. Từ thế kỷ X, tín ngưỡng Hồi giáo đã manh nha ở Vương quốc Chămpa thông qua các thương nhân từ Trung Cận Đông đem vào, gây ảnh hưởng nhất định trong đời sống tâm linh người Chămpa. Nhưng Hồi giáo không phát triển, có lẽ vì lòng sùng tín thần thánh Bàlamôn giáo, tập tục, lễ nghi cùng chế độ mẫu hệ đã bén rễ ăn sâu, trở thành truyền thống trong xã hội Chămpa, trải qua hơn nghìn năm không dễ gì thay đổi. Vì vậy, ở Vương quốc Chămpa cổ vào khoảng trước năm 1470 Hồi giáo chưa phải là tôn giáo chính thống của người Chăm. Sau năm 1470, một bộ phận cư dân Chămpa lưu tán đã tiếp xúc với người Malaysia, Indonesia, Campuchia... và họ bắt đầu tìm hiểu Hồi giáo ở các nước đó, nhiều người Chăm bỏ tôn giáo truyền thống (đạo Bàlamôn) để theo Hồi giáo. Những người Chăm khi tiếp thu được tôn giáo mới, họ quay về nước để truyền lại cho đồng bào mình. Từ đó Hồi giáo có chỗ đứng đáng kể trong cộng đồng cư dân Chămpa và chính thời điểm này sự giao hoà giữa đạo Islam và đạo Bàlamôn đã sản sinh ra một tôn giáo mới của người Chăm, đó là đạo Bàni tại miền Nam Trung bộ. Vào năm 1840, dưới triều Nguyễn, quan bảo hộ Chân Lạp là Trương Minh Giảng bị quân của An Dương - Campuchia đánh bại phải rút chạy về vùng thượng nguồn sông Tiền (Châu Đốc - An Giang ngày nay) mang theo quân lính và người Chàm, người Mã lai theo Hồi giáo, lúc đó nhà Nguyễn dựa vào lực lượng này lập các đội quân để giữ biên giới. Từ đó hình thành vùng thứ hai theo Hồi giáo chính thống của người Chăm - đạo Islam. Những năm cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, vùng Sài Gòn - Gia Định mở rộng giao lưu buôn bán với một số quốc gia phương tây, từ đó trở thành trung tâm buôn bán của Nam bộ. Các thương nhân đã thu nhận người Malaysia, Indonesia, Ấn Độ theo Hồi giáo. Tuy nhiên, cho mãi đến cuối thế kỷ XIX khi Nam bộ bị Pháp chiếm đóng, quá trình giao thương với bên ngoài ngày càng phát triển, là môi trường và điều kiện để cho người Malaysia và Indonesia nhập cư vào đất này đông hơn. Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ năm 1880 - 1890, ở Gia Định cũng xuất hiện một bộ phận người Ấn Độ, Pakistan có tín ngưỡng Hồi giáo là những thương nhân làm nghề buôn bán tơ lụa, đồ gia vị cho những tiệm buôn, quán ăn. Đó là nguồn gốc hình thành cộng đồng cư dân ngoại lai theo Hồi giáo ở TP. Hồ Chí Minh cho tới ngày nay. Sau đó hồi giáo còn phát triển ra khu vực miền trung. Do vị trí địa lý và hoàn cảnh truyền đạo, điều kiện sống và sự giao lưu của đồng bào Chăm với bên ngoài nhất là với thế giới Hồi giáo mà ở Việt Nam hình thành 2 khối Hồi giáo với nhiều khác biệt đáng kể: Hồi giáo miền Trung Việt Nam gọi là Hồi giáo Chăm Bani. Đây là nhóm Hồi giáo không chính thống vì đã pha lẫn với yếu tố sinh hoạt và tôn giáo bản địa. Các lễ thức được tiếp biến cho phù hợp với chế độ gia đình mẫu hệ và các lễ liên quan đến chu kỳ đời sống của con người và các lễ thức nông nghiệp, không có liên hệ với Hồi giáo thế giới. Có thể nói rằng, Hồi giáo Bàni ở Việt Nam là tôn giáo đặc trưng chỉ có ở Việt Nam, nó gắn chặt với dân tộc Chăm, là một phần tạo nên bản sắc văn hoá tôn giáo của người Chăm, mặt khác chính bản sắc văn hoá của người Chăm đã có tác động làm "mềm hoá" tính cứng nhắc của Hồi giáo, làm cho hệ phái Hồi giáo ở Việt Nam phong phú và đa dạng. Hồi giáo ở miền Nam Việt Nam là Hồi giáo Chăm Islam, theo Hồi giáo chính thống, thuộc hệ phái Safi'i dòng Sunni, không bị pha trộn với phong tục, tập quán, tín ngưỡng cũ và thường xuyên liên hệ với thế giới Hồi giáo Campuchia và Malaysia. Tuy có sự khác nhau nhưng giữa hai khối Hồi giáo này không có sự kỳ thị mà hòa hợp với nhau. Sau năm 1975 với cuộc chiến Việt Nam kết thúc, một bộ phận trong số 55.000 tín đồ đạo Hồi người Chăm tại Việt Nam đã trốn sangMalaysia.Hầu hết các tín đồ ở lại Việt Nam vẫn được phép sinh hoạt tôn giáo như bình thường cho dù những thánh đường Hồi giáo bị đóng cửa, cũng như các cơ sở giáo dục của người Hồi giáo bị trưng dụng bởi chính quyền mới.So với các tôn giáo khác, tín đồ Hồi giáo tại Việt Nam chiếm tỷ lệ rất thấp cũng như không có những va chạm với chính quyền, vì vậy chính quyền ít kỳ thị và kiểm soát chặt chẽ với tín đồ. Vào năm 1981, khách nước ngoài đến Việt Nam vẫn được tự do nói và cầu nguyện bằng tiếng bản xứ của họ. Vào năm 1985, các thánh đường Hồi giáo tại miền Nam được cho phép mở cửa lại, thậm chí, chính quyền còn cho phép thành lập tổ chức Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1992. Năm 2004, một Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo khác cũng được thành lập ở An Giang.Hiện nay, những người theo đạo Hồi ở Việt Nam được xem là cô lập với thế giới Hồi giáo. Mệnh lệnh từ Ả Rập thậm chí còn không đến được với những người đứng đầu cộng đồng Hồi giáo tại Việt Nam. Chủ yếu, các liên hệ với thế giới Hồi giáo Ả Rập của các tín đồ Việt Nam chủ yếu thông qua Malaysia hoặc Indonesia. Sự thiếu liên hệ trực tiếp với thế giới Hồi giáo Ả Rập, cùng với việc thiếu các cơ sở giáo dục Hồi giáo, khiến cho đạo Hồi ở Việt Nam trở nên kém phát triển. Người Hồi giáo Việt Nam hiện nay có thể tìm hiểu ý nghĩa của Kinh Coran bằng tiếng Việt qua bản dịch Việt ngữ . Cuốn “Thiên kinh Coran – Ý nghĩa và nội dung” đã được nhà xuất bản Tôn giáo ấn hành lần đầu vào năm 2001.Tháng 1 năm 2006, Thánh đường Hồi giáo tại xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộctỉnh Đồng Nai, được xây dựng lại trên nên giáo đường cũ đã được mở cửa, dựa trên sự đóng góp một phần từ Ả Rập Saudi. Đây được xem là một trong những sự liên hệ trực tiếp trở lại của tín đồ Hồi giáo tại Việt Nam với thế giới Hồi giáo Ả Rập. Tiếp sau đó, Thánh đường Hồi giáo lớn nhất Việt Nam (tính đến hết năm 2009) đã được xây dựng tại ấp Đồng Ki, xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang, khánh thành tháng 12/2009
3. Hiện trạng hồi giáo tại Việt Nam: a. Số lượng và phân bố tín đồ Hiện nay, theo số liệu thống kê của các địa phương có Hồi giáo, số lượng tín đồ Hồi giáo khoảng hơn 70.000 người (bao gồm cả Chăm Bàni và Chăm Islam), cư trú trên địa bàn 13/63 tỉnh, thành phố cả nước. Hồi giáo ở nước ta hình thành hai dòng: - Một là: Cộng đồng Hồi giáo tuân thủ tương đối giáo lý Hồi giáo nguyên thuỷ gọi là Chăm Islam, sống tập trung ở 12 tỉnh, thành phố: An Giang, TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai, Ninh Thuận, Kiên Giang, Trà Vinh, Tiền Giang, Long An, Bình Dương, Bình Phước và Thủ đô Hà Nội. - Hai là: Cộng đồng theo Hồi giáo đã bị “Chăm hoá” gọi là Chăm Bàni, sống tập trung ở ba tỉnh: Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Phước. 
Qua khảo sát về tình hình Hồi giáo ở Việt Nam, có thể rút ra một số vấn đề sau: 
a. Hồi giáo ở Việt Nam không nhiều và chủ yếu là trong cư dân Chăm. Tỷ lệ tín đồ tăng chậm trong thời gian qua, ngoài một bộ phận bỏ tín ngưỡng Bàni theo Islam ở Phước Nam (Ninh Thuận) vào những năm 60 của thế kỷ XX, số tín đồ theo Hồi giáo qua con đường “truyền đạo” không đáng kể và chủ yếu là tăng tự nhiên.- Dân cư hình thành theo các nhóm cộng đồng Jam'ah có tính quần cư là chủ yếu, một bộ phận không lớn cộng cư với người Kinh và các dân tộc anh em. Tuy nhiên, tính cộng đồng - nét truyền thống tổ chức - xã hội của cư dân Chăm vẫn là lối sống đặc trưng của cư dân Chăm Hồi giáo. - Hồi giáo nước ta có sự khác biệt giữa các vùng, trong đó Chăm Islam có mối quan hệ thường xuyên với Hồi giáo thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Mối quan hệ đó, ngoài yếu tố tôn giáo còn có quan hệ thân tộc. 
b. Nhu cầu về niềm tin tôn giáo Đồng bào Chăm Islam và Chăm Bàni có niềm tin tôn giáo sâu sắc vào Thượng đế Allah và Thiên kinh Coran, là nhu cầu đời sống tinh thần không thể thiếu, nó gắn chặt với yếu tố tôn giáo. Nó hoàn toàn khác với nhu cầu về vật chất trong đời sống xã hội. Nhưng niềm tin đó lại có sự khác nhau trong quá trình thực thi giáo luật Hồi giáo giữa hai dòng: Chăm Islam thực thi giáo luật Hồi giáo hầu như trọn vẹn mang tính chính thống, yếu tố tôn giáo sâu sắc hơn; Chăm Bàni thực hiện giáo luật mang tính tượng trưng, không thực hiện hết 5 điều sống đạo, chỉ thực hiện trong tháng Ramadan mà họ quen gọi là tháng “vào chùa’’ của các vị chức sắc. Mặt khác, Chăm Bàni chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tôn giáo Bàlamôn và tín ngưỡng bản địa với chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng đa thần, có yếu tố dân tộc mang tính vượt trội. Đánh giá một cách tổng quát, tình hình kinh tế - xã hội của đồng bào Chăm Hồi giáo nước ta hiện nay được cải thiện. Đời sống kinh tế của đồng bào Hồi giáo được nâng cao nhờ cơ sở hạ tầng phát triển, đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, phù hợp với đặc điểm của từng vùng. Các biện pháp kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất, nhất là khi Đảng ta thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước. Cho nên, mức sống của đồng bào Chăm cũng được nâng lên theo tỷ lệ chung ở từng vùng, từng địa phương, số hộ đạt mức sống khá và giàu tăng lên. Tuy nhiên, vẫn còn một số cộng đồng Hồi giáo nhỏ lẻ thiếu đất sản xuất. Do đó, tình hình tái nghèo và thất học trong các cộng đồng này đang là một vấn đề cần được quan tâm. Những năm gần đây, đời sống văn hoá - xã hội trong các cộng đồng Hồi giáo cũng phát triển và tăng lên rõ rệt. Theo đó, trình độ học vấn trong đồng bào Hồi giáo cũng từng bước nâng lên, nhất là khi Nhà nước áp dụng chính sách miễn học phí cho học sinh là con em đồng bào Chăm. Một bộ phận người Chăm Hồi giáo có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học.
4. Thánh đường Hồi giáo nổi tiếng tại Việt Nam 
Hiện nay ở Việt Nam có hơn 40 Thánh đường Islam và 25 surao (nơi cầu nguyện nhỏ hơn thánh đường). Do tín đồ Hồi giáo Islam tại Việt Nam (khoảng 70.000 tín đồ) tập trung chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh và An Giang, nên hầu hết các thánh đường lớn đều tập trung ở đây. Thánh đường Al Rahman ở 45 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Thánh đường này chủ yếu dành cho người Maylaysia và người Indonesia. Đây là Thánh đường Hồi giáo được xây dựng sớm nhất (1885) tại Việt Nam. Thánh đường Jamia Al Noor ở 12 Hàng Lược, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đây là thánh đường Hồi giáo duy nhất ở miền Bắc Việt Nam và là thánh đường Hồi giáo thứ hai được xây dựng tại Việt Nam (1890).Thánh đường Jamia Al Muslim ở 66 Đông Du, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Thánh đường này được xây dựng vào năm 1935, được xem thánh đường Hồi giáo lớn nhất tại thành phố Hồ Chí Minh. Thánh đường Jamiyah Islamic ở 52 Nguyễn Văn Trỗi, Quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một thánh đường của người Chăm và cũng là Văn phòng Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh.Thánh đường Jamiul Muslimin ở ấp Đồng Ki, xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang. Đây là thánh đường Hồi giáo lớn nhất Việt Nam tính đến hết năm 2009. Thánh đường Al Mubarak ở xã Phú Hiệp, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, thường được gọi là “chùa Chăm An Giang”, là nơi có cho phép du khách vào tham quan. Đây cũng là thánh đường Hồi giáo duy nhất có lối thảm cho nữ giới vào thánh đường. Ngoài ra ở đây có làng Chăm Châu Giang nổi tiếng với nghề dệt thổ cẩm
5. Về tổ chức Hồi giáo 
Đối với Chăm Islam, trước năm 1975, ở miền Nam, Hồi giáo có hai tổ chức chính thức là: "Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam" và "Hội đồng giáo cả Islam Việt Nam". Hiệp hội Chăm Hồi giáo Việt Nam hoạt động dưới sự điều hành của Ban Quản trị Hiệp hội Trung Ương và Đại hội đồng cơ sở. Nhằm mục đích: không hoạt động chính trị mà duy trì những tinh hoa đạo đức trong sinh hoạt tôn giáo; thực thi các tập tục truyền thống và đời sống đạo đã được kinh Coran giáo huấn. Tuy nhiên, cả hai tổ chức này nhất là Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam bị chính quyền Mỹ, Ngụy lợi dụng, sử dụng làm công cụ chống cách mạng. Do đó, nó cùng tồn tại đến ngày 30/4/1975 thì tự giải tán theo sự sụp đổ của chính quyền ngụy Sài Gòn. Mặt khác, trong cộng đồng Chăm Bàni ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, trước năm 1975 đều có tổ chức "Hội đồng giáo cả" tuy chưa được pháp luật thừa nhận nhưng trên thực tế vẫn hoạt động và tồn tại cho đến nay.Từ sau giải phóng miền Nam đến trước khi có chủ trương của Đảng về công tác đối với Hồi giáo, ở Việt Nam mới có một tổ chức là Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo TP. Hồ Chí Minh được thành lập tháng 7/1992. Từ năm 2003 (thực hiện chủ trương của Đảng về công tác Hồi giáo), Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố có Hồi giáo đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo về mặt tổ chức cho bà con tín đồ. Đến nay, đối với Chăm Islam, có thêm hai tổ chức Hồi giáo cấp tỉnh ở tỉnh An Giang và Tây Ninh; đối với Chăm Bàni, có Hội đồng sư cả Hồi giáo Bàni tỉnh Ninh Thuận. Trong thời gian qua, việc thành lập tổ chức của các cộng đồng Hồi giáo giúp cho công tác quản lý nhà nước ở địa phương đối với Hồi giáo tốt hơn, kịp thời đáp ứng những nguyện vọng chính đáng của bà con tín đồ.Thông qua các tổ chức này, cấp uỷ, chính quyền, UBMTTQVN và đoàn thể các cấp có nhiều thuận lợi trong việc tuyên truyền phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cho bà con tín đồ Hồi giáo. Nhằm giúp họ hiểu rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của tín đồ Hồi giáo, củng cố niềm tin, ý thức tự nguyện ủng hộ và tham gia thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, cũng như chủ trương, chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.
6. Đặc điểm chủ yếu của hồi giáo ở Việt Nam 
Ở nước ta, cộng đồng cư dân Chăm theo Hồi giáo mang tính đặc thù rõ nét, được chia thành 2 dòng khác nhau. Người ta thường gọi là Chăm Islam và Chăm Bàni với những đặc điểm chủ yếu sau đây: 
a. Truyền thống gắn bó và đồng hành cùng dân tộc 
Việt Nam chủ yếu chỉ có người Chăm theo Hồi giáo. Vì vậy, Hồi giáo gắn bó với dân tộc Chăm, mà cư dân Chăm là một dân tộc có nền văn hoá đa dạng và phong phú; có truyền thống yêu nước, gắn kết với dân tộc và cách mạng, đã có nhiều đóng góp trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Là một dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng bào Chăm Hồi giáo luôn phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống đoàn kết, yêu nước gắn bó với cộng đồng các dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc.Hơn nữa, từ khi có Đảng đồng bào Chăm Hồi giáo luôn đi theo và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; làm tốt nghĩa vụ công dân, ủng hộ sự nghiệp đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, góp phần viết tiếp trang sử vẻ vang của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 
b. Tính chính thống của Hồi giáo có thay đổi
Bởi tác động của bản sắc văn hoá dân tộc vùng Đông Nam Á, trong đó nền tín ngưỡng, tôn giáo bản địa cổ Bàlamôn chiếm địa vị chủ yếu. Sự tác động này được gọi là quá trình “Chăm hoá”. Như khi nghiên cứu, để chinh phục thế giới Ảrập và bành trướng thế lực, Hồi giáo chủ trương mở rộng “đất thánh” bằng các cuộc thánh chiến, với khẩu hiệu “Thanh gươm, vó ngựa, kinh Coran”. Nhưng khi Hồi giáo truyền bá xuống phía Đông bị cản trở bởi đại dương nên không thể tiến hành thánh chiến mà các giáo sĩ truyền đạo thông qua thương thuyền theo con đường mậu dịch để truyền bá và phát triển Hồi giáo ở vùng này. Chúng ta có thể khẳng định khi Hồi giáo truyền bá xuống phía Đông đã chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi bản sắc văn hoá truyền thống lâu đời của vùng Á Đông và tín ngưỡng cổ Bàlamôn với chế độ mẫu hệ, làm cho tính cách Hồi giáo phải biến đổi phù hợp với nền văn hóa bản địa. 
c. Tính quốc tế của Hồi giáo 
Hồi giáo là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất thế giới, đang trong xu thế của quá trình “Hồi giáo hoá thế giới”. Hơn nữa, thế giới đang đứng trước nguy cơ xung đột sắc tộc và tôn giáo trong mối quan hệ “toàn cầu hoá”. Đảng ta chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế theo phương châm “Việt Nam là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Các tôn giáo ở Việt Nam, nhất là Chăm Hồi giáo đã, đang và sẽ tiếp tục chịu sự tác động nhiều mặt của Hồi giáo thế giới. Theo đó, một số sinh hoạt tôn giáo truyền thống của Hồi giáo vốn mang tính quốc tế nay được mở rộng. Nó vừa là nhu cầu, vừa là đặc điểm phổ biến đang phát triển.Sự du nhập của hồi giáo vào Việt Nam có sự thay đổi so với đạo hồi chính thống, một số phong tục tập quán có sự thay đổi như Nam giới không được theo chế độ đa thê, các giáo luật không được thực hiện một cách đầy đủ (họ không đọc kinh Coran, không làm lễ 5 lần mỗi ngày, không biết cách thức cầu nguyện theo nghi thức hồi giáo, Phụ nữ ra đường không phải trùm khăn kín mặt…nói chung hồi giáo khi du nhập vào nước ta thì các luật lệ đã bớt đi sự khắt khe và mang màu sắc riêng của từng nước. Cùng với xu thế hội nhập quốc tế của Nhà nước, Hồi giáo Việt Nam cũng mở rộng và phát triển giao lưu với các cá nhân, tổ chức Hồi giáo ngoài nước. Mối quan hệ đó không chỉ vì mục đích tôn giáo mà còn có những mục đích chính trị - xã hội. Nhằm thúc đẩy hoạt động Hồi giáo nước ta hội nhập vào cộng đồng Hồi giáo thế giới.
7. Biến thể Hồi giáo Bani trong văn hóa Chămpa:
a. Hệ thống thần linh và hệ thống giáo luật
Từ tín ngưỡng đa thần của Bàlamôn giáo, người Chăm Bàni chuyển sang tín ngưỡng nhất thần, chỉ thờ phụng thánh Ala và thiên sứ Mohammed. Tuy nhiên, trong tiềm thức của người Chăm Bàni vẫn sâu đậm quan niệm đa thần, thể hiện trong việc tham gia vào các nghi lễ mang tính chất nông nghiệp như lễ hội Rija nưgar, lễ hội Kaplau krong, Plao Pasah...Tôn giáo Bàni là Hồi giáo du nhập từ Indonesia, Malaysia từ lâu đời và cũng từ lâu, nó đã bị bản địa hóa khá đậm. Hồi giáo Bàni không có sự liên lạc với Hồi giáo quốc tế mà còn không chịu chấp nhận Hồi giáo mới. Vì vậy, hệ thống giáo lý giáo luật của tôn giáo Bàni hiện nay đã khác xa với hệ thống giáo lý giáo luật của Hồi giáo quốc tế. Tuy vậy, hệ thống giáo lý giáo luật của Bàni vẫn có một cái gốc chung là kinh CoranChữ Ả Rập trong kinh Coran đã bị cải biến và chuyển sang nhiều thế hệ chữ Chăm nên ngày càng xa bản gốc
b. Hệ thống nghi lễ, việc thờ cúng
Khác với Hồi giáo chính thống, tín đồ Bàni không làm lễ năm lần mỗi ngày. Ngày thánh lễ là vào thứ sáu hàng tuần và cũng chỉ tổ chức đơn giản vào một thời gian nhất địnhTháng chay Ramưvan là thời gian quan trọng nhất của người Bàni, Nhưng người theo Bàni không phải nhịn ăn vào ban ngày như luật Hồi giáo quy định.
c. Tang lễ
Tang lễ người Chăm Bàni Ninh Thuận đơn giản, không phân biệt đẳng cấp, dòng họ nhưng cũng có nhiều nghi thức tang lễ khác nhau phân biệt bởi tuổi bị chết:
Loại lễ tang do một thầy Char làm lễ trong các lễ tang cho trẻ con, người chết không bình thường, chết khi còn là bào thai, phải chôn tạm rồi sau này mới được đưa vào nghĩa địa. Loại lễ tang có hai thầy Char dành cho trẻ chết dưới 10 tuổi nhưng được chôn vào nghĩa địa. Loại lễ tang do ba thầy Char làm lễ dành cho những người chết dưới 70 tuổi. Loại lễ tang do sáu thầy Char làm lễ dành cho những người chết trên 70 tuổi. Tang lễ này có nghi thức rửa tội. Loại lễ tang do 13 thầy Char làm lễ dành cho các tu sỹ và những người giàu có. Loại lễ tang do 17 thầy Char làm lễ dành cho những người chết là Pôgrù (thầy cả).
d. Cưới hỏi:
Qui định của luật và giáo lý Hồi giáo buộc tín đồ Hồi giáo chung sống với nhau phải thông qua lễ cưới hỏiNgười Chăm Hồi giáo Islam cũng như người Chăm Hồi giáo Bà Ni coi sự độc thân là một tội lỗi, nên trong gia đình thường gả con sớm.Cũng như người Chăm Bà La Môn, người Chăm Hồi Giáo Bà Ni quan niệm người con gái thuộc nội tộc, con gái là nội tướng, có bổn phận nội trợ, quản lý tài sản, phụng dưỡng cha mẹ, chăm sóc chồng con, thờ cúng tổ tiên v.v... Người con gái ngoài bổn phận làm mẹ, làm vợ còn cả tứ đức: Công, dung, ngôn, hạnh và rất hiếu khác
III. CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA ĐỐI VỚI ĐẠO HỒI CỦA NGƯỜ CHĂM VIỆT NAM 
Cộng đồng Hồi giáo TP Hồ Chí Minh khẳng định tinh thần hòa nhập và đoàn kết dân tộc. 69 đại biểu đại diện tín đồ thuộc 16 khu vực Hồi giáo tại TP Hồ Chí Minh đã tham dự Ðại hội đại biểu Cộng đồng Hồi giáo thành phố nhiệm kỳ IV (2008-2012) khai mạc sáng 21-1 tại Thánh đường Jamiul Muslimine. 
• Ðại hội nhất trí tăng cường các hoạt động thiết thực, cụ thể, trực tiếp đáp ứng nhu cầu hoạt động tín ngưỡng của tín đồ Hồi giáo trên toàn thành phố. Ðánh giá hoạt động nhiệm kỳ III (2001-2007), Phó Ban thường trực Cộng đồng Hồi giáo TP Hồ Chí Minh Idris Smael cho biết, chương trình hoạt động tôn giáo của toàn cộng đồng đã phát triển khá toàn diện. Các dịp lễ như Maulid (kỷ niệm ngày sinh Nabi Muhammad), Tết cổ truyền Raya Idil Adha, Tháng Ramadan, hành hương Haji tại Merca đều được tổ chức chu đáo với sự hỗ trợ thiết thực của chính quyền các cấp. Hoạt động phân phối, tái bản kinh sách, tổ chức các khóa học trang bị kiến thức Hồi giáo cơ bản, mở các lớp dạy chữ Chăm (Nam Bộ), dạy Kinh Koran và cơ bản giáo lý... diễn ra thuận lợi tại các khu vực. 
• Trong nhiệm kỳ, năm Thánh đường Hồi giáo tại các quận 10, 1, 8, Phú Nhuận và Bình Thạnh đã được xây cất mới và tu bổ khang trang với tổng kinh phí gần năm tỷ đồng; cộng đồng đã được chính quyền thành phố hỗ trợ đất và kinh phí để có được khu vực nghĩa trang riêng cho người Hồi giáo. 
• Với ưu thế của Cộng đồng Hồi giáo tại một thành phố lớn, Cộng đồng Hồi giáo TP Hồ Chí Minh đã đảm đương tốt vai trò đại diện cho Hồi giáo cả nước thực hiện nhiều nhiệm vụ đối ngoại quan trọng như: tham dự Hội nghị hòa bình, hợp tác, giá trị con người tại Singapore, Hội nghị liên tôn khu vực (Philippines), Hội nghị ASEM lần thứ II (Sip) với đề tài vai trò tôn giáo trong xã hội đa văn hóa-đa dân tộc, dự các tọa đàm khoa học quốc tế... 
• Thông qua các sự kiện này, Cộng đồng đã giúp nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế và cá nhân hiểu biết rõ hơn về tình hình sinh hoạt tín ngưỡng tại Việt Nam, chính sách tôn trọng tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Nhà nước cũng như niềm tin, mong muốn góp sức của toàn thể tín đồ Hồi giáo Việt Nam vào sự phát triển toàn diện của đất nước trong thời kỳ mới. • Ðại hội đã suy cử chín vị là các giáo cả, I-mam, uy tín, gương mẫu vào Ban Ðại diện Cộng đồng Hồi giáo khóa IV.
• Chủ tịch Huỳnh Đảm tin tưởng, với phương châm " Tốt đời, đẹp đạo", trong thời gian tới, cộng đồng Hồi giáo Việt Nam có những đóng góp thiết thực hơn nữa vào sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu đẹp 
• Nhân dịp Tết Raya Eidil Adha (1429.HL/2008.DL) của đạo Hồi, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Huỳnh Đảm đã gửi thư chúc mừng tới các vị chức sắc, chức việc và cộng đồng tín đồ Hồi giáo ở Việt Nam. 

Thay mặt Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Huỳnh Đảm gửi tới các vị chức sắc, chức việc và cộng đồng Hồi giáo ở Việt Nam lời chúc mừng tốt đẹp nhất. 

Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đánh giá cao tinh thần thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của các tín đồ Hồi giáo ở Việt Nam. 

Thời gian qua, cộng đồng Hồi giáo ở Việt Nam tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam phát động, nhất là cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", cuộc vận động "Ngày vì người nghèo", góp phần thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự tại các địa phương trên cả nước.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét