TRIẾT LÝ ĐẠO HỒI TẠI TRUNG ĐÔNG VÀ BƯỚC TIẾP CẬN CỦA VIỆT NAM / TS.Bùi Nhật Quang / Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông
Tạp chí Viện nghiên cứu châu Phi và Trung Đông
1. Tầm quan trọng của Trung Đông.
Trung Đông là khu vực có vị trí chiến lược và nhiều tiềm năng phát triển, đang là điểm nóng thu hút sự quan tâm của rất nhiều nước lớn trên thế giới. Trong một thời gian dài, Trung Đông đã chịu các tác động cả tích cực lẫn tiêu cực của những diễn biến toàn cầu xuất phát từ các trung tâm quyền lực hàng đầu trên thế giới như Hoa Kỳ, Liên Minh Châu Âu, Trung Quốc, Nga...vv. Sự gắn kết có tính nhạy cảm như vậy của Trung Đông với các trung tâm quyền lực của thế giới khiến cho các quốc gia khu vực này nhanh chóng bị lôi kéo vào các diễn biến mới của quá trình phát triển toàn cầu, trở thành địa bàn phát huy ảnh hưởng của rất nhiều nước lớn.
Đối với Việt
- Trung Đông bao gồm nhiều quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh và nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào (đặc biệt là tiềm năng dầu khí).
- Các quan hệ quốc tế tại Trung Đông đang diễn ra hết sức đa dạng với nhiều tầng nấc, nhiều loại đối tác trong đó Việt Nam có lợi thế là duy trì được quan hệ chính trị rất tốt đẹp với hầu hết các quốc gia Trung Đông.
- Nếu khai thác tốt quan hệ với khu vực này thì lợi ích mang lại cho cả Việt
Từ những nhận định như vậy, một cách tiếp cận rất đáng quan tâm khi tìm hiểu về Trung Đông đã được đặt ra: nghiên cứu về Trung Đông qua lăng kính của triết lý đạo Hồi.
2. Hồi giáo và Triết lý đạo Hồi.
Đạo Hồi (Hồi giáo, phiên âm theo tiếng Arab là al-'islām) được xác định là một tôn giáo độc thần thuộc nhóm các tôn giáo có nguồn gốc từ Abraham [1] . Đây là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới, sau Kitô giáo, và là tôn giáo đang phát triển nhanh nhất, với số tín đồ ước tính hiện đã lên tới 1,3 tỷ người tập trung chủ yếu tại các quốc gia Trung Đông. Các nghiên cứu về tôn giáo của khu vực Trung Đông cho thấy rằng khu vực bán đảo Arab mà cụ thể là Saudi Arabia chính là quê hương của Đạo Hồi, nơi tôn giáo này xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng Thế kỷ thứ VII. Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân dẫn tới sự ra đời của đạo Hồi nhưng hầu hết các học giả đã gắn sự ra đời của tôn giáo này với hàng loạt các nguyên nhân kinh tế, xã hội, tư tưởng của khu vực Trung Đông trong quá trình chuyển biến từ chế độ công xã nguyên thủy sang xã hội có giai cấp của các tộc người khác nhau sinh sông trong khu vực. Thực tế phát triển thời kỳ đó cho thấy sự cần thiết của đạo Hồi trong việc góp phần thống nhất các bộ lạc trong bán đảo Arab thành một nhà nước phong kiến thần quyền và đạo Hồi với tư cách một tôn giáo độc thần đã ra đời để thay thế những tôn giáo đa thần tồn tại từ trước đó.
Triết lý đạo Hồi được gắn liền với tên tuổi của Giáo chủ Mohammed (570 – 632) là một người thuộc gia tộc Casimu ở
- Đã có nhiều nghiên cứu của các học giả phương Tây về đạo Hồi và các đánh chung cho rằng giáo lý của đạo Hồi được xây dựng với những nguyên tắc tương đối đơn giản, dễ hiểu để phù hợp với đại bộ phận dân chúng. Tuy nhiên, các luật lệ và lễ nghi liên quan lại rất phức tạp và ở chừng mực nhất định được cho là rất nghiêm khắc, nhiều khi vượt ra khỏi phạm vi tôn giáo và trở thành một chuẩn mực pháp lý của xã hội. Giáo lý cơ bản của Hồi giáo là Kinh Coran ghi lại các lời nói do thánh Allah thông qua thiên sứ Gabrien “khải thị” cho Mohammed. Kinh Coran được thống kê bao gồm 30 quyển, 114 chương và hơn 6200 tiết với nội dung vô cùng phong phú đề cập tới những tín ngưỡng cơ bản và chế độ tôn giáo của đạo Hồi. Đó là những ghi chép về tình hình xã hội trên bán đảo Arab đương thời cùng với những chính sách về chủ trương xã hội, quy phạm luân lý đạo đức…
- Tiếp cận triết lý của đạo Hồi cho thấy sự khẳng định về các nội dung cơ bản coi Allah là đấng tối cao sinh ra trời đất, sinh ra muôn loài trong đó có con người. Con người là bình đẳng trước Allah nhưng số phận và tài năng tạo nên sự khác nhau giữa những con người. Tín đồ đạo Hồi phải luôn có thái độ đúng: trong cộng đồng (Hồi giáo) thì phải kiên nhẫn chịu đựng, phục tùng Allah, đối với người ngoài thì phải kiên quyết bảo vệ mọi lợi ích của đạo Hồi và phải có tinh thần thánh chiến.
- Quan điểm triết lý đạo Hồi cũng đưa ra một hệ thống các nghĩa vụ Hồi giáo, coi đó là nền tảng trong hành vi và sự phát triển của xã hội Arab với 5 nghĩa vụ chủ yếu dành cho các tín đồ là niệm, lễ, trai, khoá, triều. Đây là 5 trụ cột của tôn giáo được giải thích cụ thể là (1) Niệm: tín đồ phải thường xuyên tụng niệm thành tiếng các tín điều cơ bản; (2) Lễ: tức là lễ bái. Các tín đồ mỗi ngày hành lễ 5 lần (sáng, trưa, chiều, tối, đêm). Thứ 6 hàng tuần thì làm lễ tại thánh đường 1 lần vào buổi trưa; (3)Trai: tức là trai giới. Tháng 9 theo lịch Hồi là tháng trai giới của Hồi giáo. Trong tháng này mọi tín đồ không ăn uống, quan hệ tính dục từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn; (4) Khoá: các tín đồ có nghĩa vụ đóng góp cho các hoạt động từ thiện. Sự đóng góp đó có thể là tự nguyện, nhưng cũng có khi là bắt buộc dựa vào tài sản của tín đồ; và (5) Triều: Các tín đồ có nghĩa vụ hành hương về
Thực tế cho thấy đạo Hồi hiện nay là một trong những tôn giáo quan trọng nhất ở Trung Đông và các quan điểm triết lý của đạo Hồi cùng một hệ thống các giáo lý, các quy định bắt buộc…đã có ảnh hưởng quan trọng tới mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia Trung Đông. Trong tiếp cận nghiên cứu về các vấn đề kinh tế của Trung Đông, hệ thống lý luận Kinh tế học hồi giáo [2] cũng được xây dựng với những luận điểm khoa học riêng tạo ra nét đặc thù khi nghiên cứu về nền kinh tế của các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Trung Đông. Kinh tế học Hồi giáo phản ảnh các quan điểm chủ đạo của triết lý đạo Hồi áp dụng trong lĩnh vực kinh tế và các nguyên tắc kinh tế, tài chính vẫn đang trong quá trình được xây dựng và phát triển bởi các học giả đạo Hồi. Các điểm nổi bật của triết lý đạo Hồi trong lĩnh vực nghiên cứu kinh tế bao gồm:
- Xác định phải nghiên cứu kinh tế hồi giáo với tư cách là khoa học xã hội về các vấn đề kinh tế của những nhóm cư dân mà hành vi của họ gắn với tư tưởng Hồi giáo [3]
- Triết lý Hồi giáo gắn chặt với quan điểm của đạo Hồi về phát triển kinh tế với ưu tiên hàng đầu là phải đảm bảo phúc lợi và công bằng kinh tế - xã hội của tất cả loài người (quan điểm có tên gọi là falah về phúc lợi và công bằng theo triết lý đạo Hồi).
- Đạo Hồi có quan tâm đồng đều tới cả khía cạnh vật chất lẫn khía cạnh tinh thần của của sống con người. Điều này trái ngược với quan điểm nặng tính duy vật của thế giới đang thống trị các học thuyết kinh tế đương đại. Triết lý đạo Hồi cho rằng sự phát triển về mặt vật chất chưa đủ để đem lại phúc lợi cho con người và vẫn cần phải có sự ôn hoà trong tư tưởng và hạnh phúc trong nội tâm để có thể phát triển được một nền kinh tế thịnh vượng, vì lợi ích của con người.
3. Cách tiếp cận phù hợp từ phía Việt
Trung Đông đang ngày càng trở nên quan trọng đối với Việt
Trong quan hệ hợp tác với Trung Đông, đặc biệt là với các quốc gia Hồi giáo Arab, cách tiếp cận của Việt Nam cần được điều chỉnh theo hướng nhìn nhận đạo Hồi hiện nay là tôn giáo lớn và quan trọng nhất trong khu vực và triết lý Hồi giáo đã hình thành từ rất lâu đời, góp phần điều tiết cách thức ứng xử của người dân với ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội, chính trị của các quốc gia trong khu vực này. Các quan điểm của Hồi giáo về phát triển và những triết lý liên quan có thể coi là nền tảng quan trọng để Việt Nam có bước tiếp cận phù hợp tới khu vực Trung Đông, tìm kiếm những khâu đột phá chiến lược có thể tạo ra bước phát triển có tính bước ngoặt trong hoạt động hợp tác thiết thực, hiệu quả giữa hai bên.
Tài liệu tham khảo.
1. The Jewish History Resource Centre, The
2. Haque, Zial: “Nature and Methodology of Islamic Economics: An Appraisal”paper presented to the Eighth Annual General Meeting of the Pakistan Society of Development Economists, January 7-10, 1992, Islamabad.
3. Mannan, Abdul, “Islamic Economics. Theory and Practice”, The Islamic Academy
4. Thông tin từ Từ điển bách khoa mở Wikipedia.
[1] Abraham theo kinh Cựu ước được coi là tổ phụ của người Do Thái và người Arab. Các tôn giáo có nguồn gốc từ Abraham chủ yếu bao gồm Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo. Nhiều đánh giá cho rằng các tín đồ của những tôn giáo này chiếm tới hơn một nửa số người có đạo trên thế giới.
[2] Theo nghiên cứu của Haque, Zial: “Nature and Methodology of Islamic Economics: An Appraisal” paper presented to the Eighth Annual General Meeting of the Pakistan Society of Development Economists, January 7-10, 1992, Islamabad.
[3] Mannan, Abdul (1986), “Islamic Economics. Theory and Practice”, The Islamic Academy
|
Thứ Hai, 2 tháng 7, 2012
TRIẾT LÝ ĐẠO HỒI TẠI TRUNG ĐÔNG VÀ BƯỚC TIẾP CẬN CỦA VIỆT NAM
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét